Saturday, May 26, 2007

Ngày nhân quyền cho Việt Nam

Ngày nhân quyền cho Việt Nam-11 tháng 5
Luật sư Nguyễn Hữu Thống

“… chiếu Điều 5 Công Ước Quốc Tế về Những Quyền Dân Sự và Chính Trị, Đảng Cộng Sản không được giải thích xuyên tạc các điều khoản trong Công Ước này …”

Mùa Xuân 1945, 50 quốc gia đồng minh họp Hội Nghị San Francisco để thành lập Liên Hiệp Quốc. Mục đích để duy trì hoà bình cho các quốc gia, tránh một trận thế chiến thứ ba, chiến tranh nguyên tử toàn diện và toàn diệt. Để đạt mục tiêu này Liên Hiệp Quốc chủ trương hợp tác, hoà giải và hữu nghị giữa các quốc gia, và tôn trọng, thực thi và bảo vệ nhân quyền cho con người.

Ba năm sau, ngày 12-10-1948, tại Paris, Liên Hiệp Quốc ban hành
Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền. Sở dĩ Liên Hiệp Quốc chọn Paris là vì, cũng tại nơi này năm 1789, các nhà cách mạng dân quyền Pháp đã công bố Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền:

“Con người sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và tiếp tục được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Mục đích của sự thành lập quốc gia là để thiết lập các cơ chế nhằm bảo đảm cho người dân những quyền tự nhiên, thiêng liêng và bất khả xâm phạm, như quyền tự do, quyền tư hữu, quyền an ninh và quyền đối kháng bạo quyền. Quốc gia chỉ được coi là có hiến pháp, nếu có quy định tam quyền phân lập giữa ba ngành lập pháp, hành pháp và tư pháp, đồng thời quy định sự tôn trọng, thực thi và bảo vệ nhân quyền cho người dân”.

Tuyên Ngôn còn cảnh giác nhân loại rằng: “Sự phủ nhận, khinh miệt hay lãng quên nhân quyền là nguyên nhân duy nhất đem lại đại bất hạnh cho người dân và sa đọa cho chính quyền”.

Trước đó 13 năm, năm 1776, các nhà lập quốc Hoa Kỳ đã công bố Tuyên Ngôn Độc Lập xác nhận việc mọi người sinh ra bình đẳng là một chân lý hiển nhiên, và nhân quyền là những quyền bẩm sinh, bất khả xâm phạm do Tạo Hóa ban cho con người như quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Cũng như Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền 1789, Tuyên Ngôn Độc Lập 1776 dành cho người dân quyền đối kháng bạo quyền: “Khi chính quyền vi phạm thô bạo dân quyền, Quốc Dân có quyền đứng lên lật đổ chính quyền, để thay thế bằng một chính quyền mới đặt căn bản trên những nguyên tắc và thể chế thuận lợi nhất cho việc bảo đảm an ninh và hạnh phúc của con người”.

Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền 1948 cũng thừa nhận quyền đối kháng bạo quyền như một hình thức của quyền Dân Tộc Tự Quyết: “Điều cốt yếu là nhân quyền phải được chế độ dân chủ pháp trị bảo vệ, để con người khỏi bị dồn vào thế cùng phải nổi dậy chống áp bức và bạo quyền.”

Để kỷ niệm ngày ban hành Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, ngày 10 tháng 12 mỗi năm được gọi là Ngày Quốc Tế Nhân Quyền.

Năm 1994, Lưỡng Viện Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua Nghị Quyết Chung lấy ngày 11 tháng 5 mỗi năm là Ngày Nhân Quyền cho Việt Nam. Nghị Quyết này đã được Tổng Thống Hoa Kỳ phê chuẩn và ban hành để trở thành Luật Công Pháp ngày 25-5-1994 (số 103-258), với nội dung chủ yếu như sau:

“Quốc Hội Hoa Kỳ yêu cầu Chính Phủ Hà Nội:
1. Phóng thích tất cả các tù nhân chính trị.
2. Bảo đảm cho nhân dân Việt Nam quyền bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt tín ngưỡng, chính kiến, hay đoàn thể trong quá khứ.
3. Phục hồi các nhân quyền cơ bản như tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tự do đi lại và tự do lập hội.
4. Bãi bỏ chế độ độc đảng.
5. Công bố một phương án và lịch trình tổ chức tổng tuyển cử tự do và công bằng dưới sự giám sát của Liên Hiệp Quốc để nhân dân Việt Nam được hành sử quyền Dân Tộc Tự Quyết”.

Về mặt quốc tế, Dân Tộc Tự Quyết là quyền của các dân tộc được đứng lên đấu tranh giành độc lập cho quốc gia.

Về mặt quốc nội, Dân Tộc Tự Quyết là quyền của người dân được tự do lựa chọn chế độ chính trị của quốc gia, và tự do lựa chọn các đại biểu của mình trong chính quyền để thực thi chế độ đó.

DÂN TỘC TỰ QUYẾT: GIÀNH ĐỘC LẬP CHO QUỐC GIA

Sau Thế Chiến I, năm 1919 tại Hội Quốc Liên, tổ chức tiền thân của Liên Hiệp Quốc, Tổng Thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson công bố quyền Dân Tộc Tự Quyết khuyến cáo các Đế Quốc Tây Phương hãy từng bước trả tự trị và độc lập cho các thuộc địa. Tuân hành khuyến cáo này, năm 1919 Đế Quốc Anh trả độc lập cho Canada tại Bắc Mỹ và A Phú Hãn tại Nam Á. Năm 1934 Quốc Hội Hoa Kỳ ban hành một đạo luật thừa nhận Phi Luật Tân là một quốc gia tự trị từ 1935. Trong đạo luật này Hoa Kỳ cam kết sẽ trả độc lập cho Phi Luật Tân sau 10 năm tự trị, nhằm đúng ngày Quốc Khánh Hoa Kỳ 4 tháng 7, 1945. Tuy nhiên, tới ngày đó, Chiến Tranh Thái Bình Dương chưa kết thúc nên Phi Luật Tân chỉ được tuyên bố độc lập ngày 4 tháng 7, 1946, trễ 1 năm vì lý do chiến cuộc.

Trong Thế Chiến II, năm 1941, Hoa Kỳ triệu tập hội nghị các quốc gia đồng minh tại Newfoundland (Canada) để công bố Hiến Chương Đại Tây Dương, theo đó, chiếu nguyên tắc Dân Tộc Tự Quyết, các Đế Quốc Tây Phương cam kết sẽ giải phóng các thuộc địa Á Phi khi chiến tranh kết thúc. Điều cam kết này trong Hiến Chương Đại Tây Dương 1941 đã được tái xác nhận trong Tuyên Ngôn Liên Hiệp Quốc công bố tại Hoa Thịnh Đốn năm 1942.

Một tháng trước khi Đức Quốc Xã buông súng quy hàng, tháng 4-1945, 50 Quốc Gia Đồng Minh họp Hội Nghị San Francicsco để thành lập Liên Hiệp Quốc và ban hành Hiến Chương Liên Hiệp Quốc.

Điều 1 và Điều 55 Hiến Chương tuyên dương Nhân Quyền, đặc biệt là quyền Dân Tộc Tự Quyết. Và chiếu Điều 56 Hiến Chương, các quốc gia hội viên, trong đó có các Đế Quốc Tây Phương, cam kết sẽ cộng tác với Liên Hiệp Quốc để thực hiện những mục tiêu ghi trong Điều 1 và Điều 55 Hiến Chương.

Trung thành với những lời cam kết trong Hiến Chương Đại Tây Dương (1941), Tuyên Ngôn Liên Hiệp Quốc (1942) và Hiến Chương Liên Hiệp Quốc (1945), chỉ trong vòng 3 năm, từ 1946 đến 1949, tất cả các Đế Quốc Tây Phương như Anh, Pháp, Mỹ, Hoà Lan đã lần lượt tự giải thể để trả độc lập cho 12 nước thuộc địa, bảo hộ và giám hộ tại Á Châu:

1. Độc lập năm 1946: Phi Luật Tân thuộc Hoa Kỳ; Syrie và Liban thuộc Pháp.
2. Độc lập năm 1947: Ấn Độ và Đại Hồi thuộc Anh.
3. Độc lập năm 1948: Miến Điện, Tích Lan và Palestine thuộc Anh.
4. Độc lập năm 1949: Việt Nam, Cao Miên và Ai Lao thuộc Pháp; và Nam Dương thuộc Hoà Lan.

Kinh nghiệm lịch sử cho biết những cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc công khai, ôn hoà, không bạo động và không liên kết với Quốc Tế Cộng Sản là đường lối khôn ngoan và hữu hiệu nhất để giành lại chủ quyền độc lập cho quốc gia.

Nếu năm 1949 đánh dấu sự giải thể chế độ thuộc địa Tây Phương tại Á Châu, thì đó cũng là năm phe Quốc Tế Cộng Sản bành trướng tại Lục Địa Trung Hoa, đồng thời thiết lập Bức Màn Sắt tại 7 nước Đông Âu là Ba Lan, Hung Gia Lợi, Tiệp Khắc, Đông Đức, Anbani, Bungari và Rumani.

Sau khi thôn tính lục địa Trung Hoa và thành lập Khối Minh Ước Vácsôvi năm 1949, mục tiêu chiến lược của Quốc Tế Cộng Sản là thôn tính hai bán đảo Đông Dương và Triều Tiên.

Tại Việt Nam, Chiến Tranh Việt-Pháp bùng nổ năm 1946 đã mở rộng từ 1949. Qua năm sau, với sự yểm trợ của Liên Xô và Trung Quốc, Bắc Hàn xâm lăng Nam Hàn. Từ đó chiến tranh võ trang bộc phát giữa Quốc Tế Cộng Sản và Thế Giới Dân Chủ. Đây không phải là chiến tranh giải phóng dân tộc mà là chiến tranh ý thức hệ giữa hai khối Cộng Sản và Dân Chủ. Trong những năm 1953 và 1954, hai phe đã ký các Hiệp Định Đình Chiến tại Bàn Môn Điếm và Geneve. Trong khi tại Triều Tiên, từ hơn nửa thế kỷ nay, hai phe vẫn án binh bất động và chung sống hoà bình, thì tại Việt Nam, Hồ Chí Minh đã giảo hoạt ngụy trang chiến tranh ý thức hệ dưới chiêu bài giải phóng dân tộc, và đã thiết lập trong vùng quốc gia những tổ chức ngoại vi như Phong Trào Bảo Vệ Hoà Bình, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, Liên Minh Dân Tộc, Dân Chủ v...v.... Bằng tuyên truyền dối trá và giả nhân giả nghĩa, Cộng Sản đã du mị và lường gạt được dư luận quốc tế và một số người Việt quốc gia tại Miền Nam để cưỡng chiếm phần đất này và thiết lập chế độ độc tài vô sản từ 1975.

Tại vùng Nam Á, Chiến Tranh A Phú Hãn cũng bộc phát trong thập niên 1970. Do sự quyết tâm của phe Dân Chủ, đặc biệt với cuộc thi đua võ trang trong Chiến Tranh Tinh Cầu (Star-War), trong thập niên 1980, phe Cộng Sản lâm vào bước thoái trào. Từ 1985 Liên Xô không còn chủ trương thống trị Khối Minh Ước Vácsôvi. Với mặt trận truyền thông, thông tin và truyền bá sự thật, người dân Đông Âu đã ý thức tính độc tài, phi nhân, phản dân tộc và phản tiến hóa của chế độ vô sản chuyên chính. Từ 1953, sau cái chết của Staline, người dân Đông Âu đã dũng cảm đứng lên đấu tranh công khai, ôn hoà, bất bạo động đòi Dân Tộc Tự Quyết để giải thể chế độ Cộng Sản và xây dựng chế độ Dân Chủ. Kết quả là chỉ trong vòng hai năm, từ 1989 đến 1991, chế độ độc tài Cộng Sản đã vĩnh viễn cáo chung tại 7 nước thuộc Bức Màn Sắt Đông Âu, và 15 nước tại Liên Bang Xô Viết. Hậu quả dây chuyền là sự giải thể Cộng Sản tại một số quốc gia Á Phi như A Phú Hãn, Mông Cổ, Cao Miên, Angola, Mozambique, Ethiopia v... v...

DÂN TỘC TỰ QUYẾT CHO HOA KỲ

Từ hơn 200 năm trước, nhân dân Hoa Kỳ đã ý thức và hành sử quyền Dân Tộc Tự Quyết, và đã dũng cảm đứng lên giành lại chủ quyền độc lập cho quốc gia, đồng thời đề xướng và phát huy nhân quyền và những quyền tự do cơ bản của người dân.

Đọc lại lịch sử Hoa Kỳ cách đây hơn 230 năm, chúng ta thấy tâm trạng và ý nguyện của dân tộc Hoa Kỳ ngày đó cũng tương tự như tâm trạng và ý nguyện của dân tộc Việt Nam hôm nay. Ngày nay, có thể nói, Tuyên Ngôn Độc Lập 1776 không còn là của riêng Hoa Kỳ, mà của cả nhân loại:

“Chúng ta ghi nhận sự thật hiển nhiên theo đó Con Người sinh ra Bình Đẳng và được Tạo Hóa ban cho những quyền bất khả chuyển nhượng như Quyền Sống, Quyền Tự Do và Quyền Mưu Cầu Hạnh Phúc. Để thực thi những quyền này, xã hội thiết lập chính quyền xây dựng trên sự đồng thuận của Quốc Dân.

Khi chính quyền vi phạm thô bạo dân quyền, Quốc Dân có quyền đứng lên lật đổ chính quyền, để thay thế bằng một chính quyền mới đặt căn bản trên những nguyên tắc và thể chế thuận lợi nhất cho việc bảo đảm An Ninh và Hạnh Phúc của Con Người.

Lịch sử đã từng chứng minh rằng nhân lọai thường muốn nhẫn nhục chịu đựng hơn là muốn đấu tranh giải thể các chế độ đã thiết lập từ lâu. Tuy nhiên, với thời gian, nếu chính quyền vẫn ngoan cố tiếm đoạt lạm quyền để xiết chặt guồng máy thống trị bạo tàn bằng chế độ chuyên chính tuyệt đối, Quốc Dân có quyền và có nghĩa vụ đứng lên lật đổ chính quyền để giành lại những bảo đảm cho cuộc sống tương lai.

Trải qua bao nhiêu giai đoạn đàn áp, chúng ta đã thỉnh cầu chính quyền cải tổ bằng những lời lẽ nhu hoà nhất. Vậy mà bao nhiêu thỉnh nguyện kế tiếp của chúng ta chỉ được trả lời bằng những thóa mạ thường xuyên. Chính quyền này đã biểu lộ cá tính của một bạo quyền. Nó không còn xứng đáng lãnh đạo một Dân Tộc Tự Do...”

DÂN TỘC TỰ QUYẾT CHO VIỆT NAM.

Sau Thế Chiến I, năm 1919 tại Paris, Luật Sư Tiến Sĩ Phan Văn Trường, nhân danh Chủ Tịch Hội Những Người Việt Nam Yêu Nước, đã hướng dẫn Kỹ Sư Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) đến yết kiến Tổng Thống Wilson để đệ trình Thỉnh Nguyện Thư 8 Điểm của Dân Tộc Việt Nam chiếu nguyên tắc Dân Tộc Tự Quyết:

“Từ sau cuộc chiến thắng của Đồng Minh [1918] các dân tộc bị trị vô cùng xúc động trước những triển vọng tương lai do những cam kết minh thị và trang trọng của các Cường Quốc Đồng Minh trước dư luận thế giới trong cuộc chiến đấu vừa qua để bảo vệ Văn Minh chống lại Dã Man.

Chiếu theo các cam kết này, một Kỷ Nguyên Mới của Luật Pháp và Công Lý sẽ khai mở đem lại hy vọng chứa chan cho các dân tộc bị trị.

Trong khi chờ đợi nguyên tắc Chủ Quyền Quốc Gia được chấp thuận trong lý tưởng cũng như trên thực tế, đồng thời với việc thực thi quyền Dân Tộc Tự Quyết thiêng liêng, dân tộc Việt Nam trân trọng đệ trình các Chính Phủ Đồng Minh cao quý cũng như Chính Phủ Pháp khả kính những thỉnh nguyện khiêm tốn sau đây:

1. Ban hành Đại Xá chính trị phạm.
2. Thiết lập Chế Độ Pháp Trị thay thế chế độ cai trị bằng nghị định.
3. Cải thiện Chế Độ Tư Pháp và ban hành những bảo đảm về quyền Bình Đẳng Trước Pháp Luật giữa người Việt Nam và người Âu Châu. Bãi bỏ hệ thống toà án đặc biệt là công cụ đàn áp và khủng bố những thành phần lương thiện nhất của dân tộc Việt Nam.
4. Ban hành Tự Do Báo Chí và Tự Do Ngôn Luận.
5. Ban hành Tự Do Hội Họp và Tự Do Lập Hội.
6. Ban hành Tự Do Di Trú và Tự Do Xuất Ngoại.
7. Ban hành Tự Do Giáo Dục.
8. Thành lập Phái Bộ Thường Trực Dân Cử của người Việt Nam bên cạnh Quốc Hội Pháp để đạo đạt lên Quốc Hội những nguyện vọng của người Việt Nam”....

Thỉnh Nguyện Thư ký tên Nguyễn Ái Quốc, đại diện Hội Những Người Việt Nam Yêu Nước. Nguyễn Ái Quốc là bút hiệu chung của nhóm “Ngũ Long”: Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh và Nguyễn Tất Thành. Năm 1920 Nguyễn Tất Thành bỏ Đảng Xã Hội để gia nhập Đảng Cộng Sản Pháp dưới tên Nguyễn Ái Quốc. Đây là một sự tiếm danh và mạo nhận tư cách theo chính sách cố hữu của Hồ Chí Minh: Lấy tổ chức của địch làm tổ chức của mình, lấy danh hiệu của người khác làm tên của mình.

DÂN TỘC TỰ QUYẾT: QUYỀN ĐỐI KHÁNG BẠO QUYỀN

Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ và Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền Pháp công nhận cho người dân quyền Dân Tộc Tự Quyết biểu hiện trong quyền đối kháng bạo quyền.

Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền cũng thừa nhận quyền đối kháng: ”Điều cốt yếu là nhân quyền phải được chế độ dân chủ pháp trị bảo vệ để con người khỏi bị dồn vào thế cùng phải nổi dậy chống áp bức và bạo quyền”.

Điều Thứ Nhất của hai Công Ước Quốc Tế Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc 1966 cũng thừa nhận Dân Tộc Tự Quyết là một quyền thiết yếu phải được hành sử đồng thời với 26 quyền tự do cơ bản của người dân.

Theo Điều 21 Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền “ý nguyện của người dân phải được coi là căn bản của mọi quyền lực quốc gia. Ý nguyện này phải được biểu lộ trung thực trong những cuộc tuyển cử tự do và công bằng, theo từng định kỳ và theo thể thức đầu phiếu phổ thông và kín”. Như vậy chủ quyền quốc gia phát sinh từ ý chí của nhân dân.
Hiến Pháp 1992 cũng ghi nhận điều đó:

Điều 2: “Nhà nước Cộng Hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân”. (Chứ không thuộc về một đảng độc tôn là Đảng Cộng Sản).

Điều 6: “Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội là cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân”. (Chứ không phải là sản phẩm và công cụ của Đảng Cộng Sản. Quốc Hội của nhân dân phải được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc dân chủ đại nghị hay dân chủ pháp trị chứ không theo “nguyên tắc tập trung dân chủ”).

Điều 52: ”Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.” (Do đó không được phân biệt kỳ thị về sắc tộc, màu da, nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến hay đảng phái, nguồn gốc quốc gia, thành phần xã hội, tài sản, dòng dõi hay bất cứ thân trạng nào khác, theo quy định của Điều 26 Công Ước Dân Sự Chính Trị).

Điều 54: “Công dân được quyền bầu cử và ứng cử vào Quốc hội”. (Do đó Nhà Nước không được tước đoạt quyền tự do tuyển cử của người dân bằng cách ấn định những ngăn cản do hiệp thương của các mặt trận ngoại vi, hay do thanh lọc của địa phương. Vì cuộc đầu phiếu phải có tính phổ thông và kín, và đại biểu quốc hội có tư cách đại diện cho toàn dân chứ không cho một tổ chức hay một khu vực địa lý nào).

Trong cuộc bầu cử Quốc Hội ngày 20-5 tới đây, con số ứng cử viên mệnh danh là “độc lập” chỉ có chừng 30 người kể cả một số đại diện của các giáo hội quốc doanh và một số con cháu các lãnh tụ Cộng Sản. Trong khi đó, số ứng cử viên của Đảng Cộng Sản lên tới gần 900 người. Như vậy tỉ lệ giữa những ứng cử viên ngoài Đảng và những ứng cử viên của Đảng Cộng Sản chỉ là 2% hay 3%. Đây là một nghịch lý hay một tỷ lệ nghịch. Vì số đảng viên Cộng Sản chỉ bằng 2% hay 3% dân số Việt Nam.

Đã đến lúc nhà cầm quyền Hà Nội phải dẹp bỏ chính sách “Đảng cử dân bầu” phản dân chủ, phản dân tộc. Nó đi trái với các Điều 2, 6, 52, 53 và 54 Hiến Pháp 1992 và cũng đi trái với tinh thần và bản văn Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và các Công Ước Quốc Tế Liên Hiệp Quốc mà Việt Nam đã ký kết tham gia.

Trong chế độ độc tài, độc đảng, Đảng Cộng Sản đã tước đoạt của nhân dân quyền Đối Kháng, quyền Tham Gia Chính Quyền và quyền Tự Do Tuyển Cử, là những quyền tự do chính trị thiết yếu để xây dựng một Chính Quyền của Dân, bởi Dân và vì Dân trong chế độ Dân Chủ Pháp Trị. Những quyền tự do chính trị này có tính toàn cầu, bất khả phân, liên lập và liên quan với nhau, nên phải được thực thi công bằng, đồng đều và đồng loạt trên bình diện quốc gia và quốc tế.

Trong sinh hoạt chính trị hiện nay, các ứng cử viên thường do các chính đảng đưa ra để có cơ hội thực thi chính sách của đảng. Do đó muốn có tự do tuyển cử và dành cho người dân quyền tham gia chính quyền, nhà nước phải tôn trọng những quyền tự do lập đảng, tự do hội họp, tự do phát biểu, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do đi lại v...v....

Không gì buồn tẻ cho bằng một cuộc đua ngựa trong đó chỉ có một con ngựa đua. Và cũng không gì vô duyên cho bằng một cuộc bầu cử quốc hội trong đó Đảng Cộng Sản một mình một chợ độc quyền thao túng.

Trong điều kiện hiện tại, tẩy chay bầu cử là một phản kháng ôn hoà và một hành động hợp lý. Là một quốc gia hội viên Liên Hiệp Quốc, Việt Nam phải tôn trọng Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và Tuyên Ngôn Phụ Đính theo đó “Nhà nước có trách nhiệm tiên khởi và có nghĩa vụ đề xướng, thực thi, tôn trọng và bảo vệ nhân quyền và những quyền tự do cơ bản của người dân”.

Chiếu Điều 2 Công Ước Quốc Tế về Những Quyền Dân Sự và Chính Trị, với tư cách một quốc gia hội viên kết ước, Việt Nam có nghĩa vụ phải ban hành luật pháp và tu chính hiến pháp theo tinh thần Công Ước.

Trong chiều hướng này, Hiến Pháp phải quy định quyền Tự Do Tư Tưởng và hủy bỏ nghĩa vụ cưỡng ép của cả dân tộc phải tuân theo “chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”.

Đồng thời phải tôn trọng quyền Bình Đẳng Trước Pháp Luật của người dân, không phân biệt chính kiến hay chính đảng, tôn trọng quyền Dân Tộc Tự Quyết, quyền Đối Kháng, quyền Tham Gia Chính Quyền và quyền Tự Do Tuyển Cử bằng cách tu chính Hiến Pháp, xóa bỏ Điều 4 với câu “Đảng Cộng Sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.

Trên bình diện luật pháp, không thể truy tố và kết án những người đối kháng công khai, ôn hoà, bất bạo động bằng những tội bịa đặt, giả tạo, như phá hoại chính sách đoàn kết quốc gia, tuyên truyền chống chế độ, tuyên truyền chống nhà nước, lợi dụng quyền tự do dân chủ v... v....

Có như vậy người dân mới thực sự được hành sử những quyền tự do chính trị như tự do tư tưởng, tự do phát biểu, tự do hội họp, tự do lập đảng, tự do ứng cử, tự do bầu cử, quyền bình đẳng cơ hội tham gia chính quyền, đặc biệt là quyền đối kháng bạo quyền. Đây là những hình thức của quyền Dân Tộc Tự Quyết, theo đó người dân được tự do lựa chọn chế độ chính trị của quốc gia, và tự do ứng cử và bầu cử để lựa chọn những đại biểu của mình trong chính quyền nhằm thực thi chế độ đó

Những quyền này đã được nhân loại văn minh thừa nhận trong Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ, Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền Pháp, Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và Tuyên Ngôn Phụ Đính, đặc biệt là Công Ước về Những Quyền Dân Sự và Chính Trị mà Việt Nam đã ký kết tham gia.

Hơn nữa, chiếu Điều 5 Công Ước Quốc Tế về Những Quyền Dân Sự và Chính Trị, Đảng Cộng Sản không được giải thích xuyên tạc các điều khoản trong Công Ước này để làm những hành vi nhằm tước đoạt hay hạn chế nhân quyền và những quyền tự do cơ bản đã được Luật Quốc Tế Nhân Quyền thừa nhận.

Đó là đường lối khả thi và hợp tình hợp lý nhất để xây dựng một quốc gia dân chủ tiến bộ với dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh.

Tháng 5-2007
Luật sư Nguyễn Hữu Thống
Cố Vấn Sáng Lập
Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam

LẠI MỘT TRÒ HỀ TRONG KHI BẦU CỬ

Cả thế giới và nhân dân VN đều biết rằng trong hầu hết các cuộc bầu cử do ĐCSVN tổ chức đều mang tính cách hợp thức hóa những gì mà Đảng đã định sẵn. cái gọi là tự do ứng cử và bầu cử chỉ là một lối tuyên truyền để lừa bịp dư luận và làm bình phong để đối phó với quốc tế mà thôi. Kết quả bầu cử đã được định sẵn, tỷ lệ mà cử tri đi bầu cũng được định sẵn.

Kỳ bầu cử Quốc Hội khóa 12 này ĐCSVN cũng vẫn thực hiện rập khuôn theo những trò hề gian xão mà từ trước đến nay Đảng vẫn làm, mặc dù bề ngoài trên các phương tiện truyền thanh, truyền hình và báo chí…. vẫn rêu rao là có tự do ứng cử, bầu cử nhưng bên trong thì ngấm ngầm làm ngược lại, từng tổ bầu cử ở địa phương đã có kế hoạch sẵn sàng dù cho số dân đi bầu, phiếu bất hợp lệ là bao nhiêu không cần biết. Tổ bầu cử chỉ có việc là báo cáo biên bản kiểm phiếu tại chỗ về cấp trên phải đạt 100% dân đi bầu, ít nhất là trên 90% để gọi là dân chủ, số phiếu bất hợp lệ sẽ được thay thế vào bằng số phiếu hợp lệ do tổ bầu cử tự ghi để ăn khóp với bản báo cáo, trong biên bản có các cử tri do tổ bầu cử chọn để ký vào, tổ bầu cử nào làm tốt sẽ được thưởng, các ứng cử viên không cần có đại diện và ngay cả bản thân cũng không cần theo dõi, xem xét việc bầu cử và kiểm phiếu bởi vì kết quả đã biết trước rồi, tổ bầu cử do chính quyền chọn lựa tự kiểm phiếu, tự báo cáo biên bản kết quả bầu cử, không có sự tham gia kiểm phiếu của các ứng cử viên hoặc đại diện ứng cử viên thì làm sao công bằng được.

Một thực tế bầu cử như thế cho dù có các thành phần đối lập hoặc độc lập được ứng cử thì vẫn rớt mà thôi. Không biết cái sự thực giả dối này của ĐCSVN có được các cơ quan quốc tế nhất là Liên hiệp quốc biết hay không?, một sự gian dối và lừa bịp quá trắng trợn như vậy nhưng vẫn được đảng cho là văn minh, trí tuệ, công bằng, dân chủ…, để rồi nhân dân phải thắt lưng buộc bụng, đóng tiền cho đảng tự do tiêu xài hơn 350 tỷ cho cuộc bầu cử Quốc hội gian dối này. Thật đúng là một trò hề quá bỉ ổi. Trong khi VN còn đang nằm trong danh sách những nước nghèo nhất thế giới, đại đa số nhân dân nhất là ở nông thôn phải sống nghèo khổ dưới mức trung bình, con cái phải đi ở đợ xứ người qua hình thức hợp tác lao động, con gái tình nguyện làm vợ đàn ông các nước như Đài loan, Hàn quốc ….

Với mong ước sẽ có tiền gởi về giúp đỡ gia đình. Những tấm lòng từ bi lá lành đùm lá rách của đồng bào thân yêu hải ngoại gởi tiền về để xây dựng từng cây cầu, cất từng căn nhà tình thương,bệnh xá, tổ chức đoàn cứu trợ giúp đỡ cho dân nghèo, nhưng vẫn không xóa được cảnh đau thương đầy nước mắt. Thế nhưng ĐCSVN vẫn bình thân chi cho ngày bầu cử giả dối này đến hơn 350 tỷ.

Thời phong kiến việc phong quan tiến chức các quan lại triều đình thuộc thẩm quyền của vua và các thế lực trong guồng máy chính quyền, điều này đã dẫn đến sự bóc lột,sự độc tài độc đoán, tham nhũng hà hiếp nhân dân để cho một số quan lại triều đình cùng phe phái hưởng thụ trên sự đau khổ của người dân. Trong thời đại văn minh ngày nay quyền dân chủ đã được thể hiện rõ ràng qua sự lựa chọn và tín nhiệm của nhân dân trong những cuộc bầu cử tự do thực sự đã được áp dụng hầu hết các quốc gia trên thế giới, nhân dân đã thực sự là những người chủ tương lai của đất nước. Nhưng rất đau buồn cho đất nước và dân tộc VN khi phải sống dưới chế độ của chủ nghĩa Cộng sãn, một chủ nghĩa bạo tàn đã được cả loài người từ bỏ xếp vào thùng rác.

NCS đã núp dưới chiêu bài dân chủ nhưng thực chất đã tàn ác hơn cả chế độ thời phong kiến và phátxít Hitler bởi vì dưới thời phong kiến dù sao thì vua quan triều đình cũng không tiêu xài tiền đóng thuế của nhân dân tới hơn 350 tỷ đồng cho cuộc bầu cử QH cuội như ĐCSVN bây giờ. Đúng như lời của Tổng thống Nguyễn văn Thiệu: " Đừng tin vào những gì mà CS nói, hãy nhìn kỹ ngững gì mà CS làm ", ngay cả những cán bộ cấp cao trong guồng máy lãnh đạo của CS như ông Trần quốc Thuận ( phó chủ nhiệm văn phòng QH khóa vừa qua ) cũng phải phát biểu rằng: Chúng ta sống trong một XH mà phải tự nói dối với nhau để sống, nói dối thành thói quen tưởng rằng mình nói thật, chắc có lẽ từ câu thú nhận này mà ông không được Đảng đề cử hoặc cho phép ứng cử vào QH khóa 12 vừa rồi, những đảng viên cao cấp khác có tinh thần cấp tiến vẫn chịu chung hoàn cảnh như ông.

Giờ đây với những mỹ từ cao đẹp về tự do, dân chủ và nhân quyền mà ĐCSVN thường hô hào trước dư luận đã được nhân dân trong và ngoài nước cùng các cơ quan quốc tế biết rất rõ. Câu nói của TBT Nông đức Mạnh: cương quyết không cho lợi dụng dân chủ vào QH, câu trả lời cơ quan truyền thông báo chí của ông phó chủ tịch QH Nguyễn văn Yểu: tại VN không có chế độ tranh cử mà chỉ có chế độ vận động bầu cử..v.v.., những câu nói này được phát ra từ những thành phần lãnh đạo của đảng, những cuộc xử án bỉ ổi đối với cha Lý và các thành phần đấu tranh dân chủ trong thời gian vừa qua, đã chứng minh rõ ràng cho những ai còn chút lòng tin vào chế độ CS đương thời tại VN.

Với cao trào dân chủ, nhân quyền đã và đang được quan tâm trên thế giới, với sự tự nguyện xin tham gia thi hành vào các công ước quốc tế của chính quyền CSVN, với sự hội nhập vào WTO chấp nhận cạnh tranh để cùng nhau tiến bộ trên mọi phương diện trong đó tự do, dân chủ, nhân quyền là trên hết. Nhân dân VN rất mong muốn là các quốc gia tiên tiến cùng các cơ quan nhân quyền trên thế giới hãy giúp đỡ nhân dân VN thoát ra hiểm họa Cộng Sãn mà nhân dân VN đã và đang gánh chịu hơn 60 năm dài đau khổ. Đồng bào thân thương ở hải ngoại nên cùng nhau hiệp lực dùng mọi khả năng sẵn có để cùng với các phong trào đấu tranh trong nước xóa bỏ con đường phi nghĩa mà ĐCSVN đang theo đuổi, hành động tẩy chay hàng hóa VN, đưa hình bịt miệng cha Lý trước tòa ngày 30/3/2007 tại Huế tràn khắp thế giới, dùng ảnh hưởng để nhờ các chính phủ sở tại áp lực với chính quyền CSVN, biểu tình cô lập các tòa đại sứ VN ở các nước có người Việt sinh sống, bất hợp tác với các lời kêu gọi về các chương trình xây dựng hoặc làm ăn với VN do ĐCS phát động, không đi phi cơ của VN..v.v…đó là những hành động thiết thực có hiệu quả nhất bắt buộc CSVN phải quay về lẽ phải.

Người viết cũng rất mong những cán bộ và công an, mật vụ trong ĐCSVN hãy bình tâm suy nghĩ lại việc làm của mình hầu quay về lẽ phải, đừng vì lợi ích nhỏ nhoi mà tiếp tục phục vụ cho một chính quyền phản dân hại nước để sau này ăn năng không kịp. CNCS đã thực sự cáo chung tại đất nước Liên sô nơi phát sinh ra nó cùng cả khối Đông âu, cả loài người tiến bộ thì ở VN chắc chắn cũng phải cáo chung trong thời gian ngắn sắp tới mà thôi. Hy vọng rằng lời nói tuy muộn màng của cựu thủ tướng CS Võ văn Kiệt với anh Xuân Hồng đài BBC sẽ đi vào sự thật: Đất nước này là của chung, không của riêng một đảng phái hay cá nhân nào hết…..có hàng trăm cách yêu nước khác nhau…..không nên đồng hóa yêu chủ nghĩa xã hội là yêu nước…

.Anh là người quốc gia yêu nước theo CNCS thì tôi cũng có quyền yêu nước theo chủ nghĩa và đường lối khác anh, nhân dân sẽ là người quyết định cho một chính đảng nào có đường lối và chủ trương đúng nhất để lãnh đạo đất nước, những đảng phái khác tuy không được đại đa số nhân dân chọn lựa nhưng vẫn có quyền hoạt động công khai để giám sát và theo dõi việc làm của đảng cầm quyền để cho chính quyền không có cơ hội độc tài, độc đoán đúng theo ý nguyện của toàn dân. Đa nguyên và đa đảng là con đường tất yếu phải đến, ĐCSVN nếu muốn tồn tại thì phải chấp nhận không thể nào có con đường thứ hai được, bởi vì với chế độ đa nguyên thì ĐCSVN vẫn có quyền tồn tại như các đảng phái khác mà thôi.Mong lắm thay

Việt Nam ngày 21/05/2007

Hoàng Trung Chánh

Bản Tin Liên Hội Nhân Quyền Việt Nam ở Thụy Sĩ

Khủng bố không hề thắng được khát vọng tự do!

Khủng bố không hề thắng được khát vọng tự do!

Vươn Lên Trong Bão Táp

Moskva 21.5.2007

Nguyễn Minh Cần

Đầu năm nay, trong bài viết “Mùa Xuân Dân Tộc Ló Hiện Xa Xa”, khi nhận định rằng “phong trào đấu tranh ôn hoà, bất bạo động cho tự do dân chủ ở nước ta trong năm 2006 đã chuyển lên một cấp độ mới, có tính quần chúng, tính tổ chức, tính tích cực tiến công hơn trước, đang tạo nên một viễn cảnh đầy hứa hẹn”, chúng tôi cũng đã cảnh báo “những người dân chủ cần chuẩn bị cho những cuộc chiến đấu mới vô cùng gian nan”.

Và quả đúng như vậy. Ngay từ đầu tháng 2.2007, Bộ chính trị ĐCSVN đã huy động cả bộ máy đàn áp hung ác đánh phá dữ dội phong trào dân chủ trong nước nhằm đè bẹp phong trào đang lên, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc biểu diễn trò hề “bầu cử” quốc hội. Theo nhận định của tổ chức Quan Sát Nhân Quyền (Human Right Watch) thì “đây là đợt đàn áp nhân quyền tệ hại nhất từ nhiều năm nay ở Việt Nam”.

Đương đầu với cả một bộ máy đàn áp đồ sộ và hung hãn đó của ĐCS, được vũ trang đầy đủ, lại được trang bị đủ loại “luật pháp” rừng rú, với “công lý” lộn ngược và những “toà án” bất công, các chiến sĩ dân chủ không có một tí gì hết trong tay, một tấc sắt cũng không, thậm chí ngòi bút, máy vi tính, điện thoại cầm tay đều bị tước ngay từ phút đầu. Họ chỉ có một trái tim nồng nàng yêu nước thương dân, một ý chí kiên cường và lòng tin sắt đá ở chính nghĩa cuộc đấu tranh vì tự do dân chủ mà thôi. Trong cuộc chiến đấu hoàn toàn không cân sức này, các chiến sĩ dân chủ chỉ có thể dựa vào tinh thần của mình để giành thắng lợi. Và... chúng ta hãy dõi xem sự thể đã diễn ra như thế nào trong thời gian qua?

Trận chiến đấu đầu tiên

ĐCS nhắm mục tiêu tấn công trước tiên vào Khối 8406 là Khối đã tung lên bản “Tuyên Ngôn Tự Do Dân Chủ Cho Việt Nam 2006”, một bản tuyên ngôn lịch sử, vô tiền khoáng hậu, có tiếng vang lớn trong và ngoài nước, được dư luận quốc tế đặc biệt quan tâm. Cũng chính Khối 8406 là những người đầu tiên dũng cảm đưa ra khẩu hiệu “Tẩy chay cuộc bầu cử độc đảng”, vì đây là một trò hề giả dối, bỉ ổi, tiến hành theo lối “đảng cử dân bầu” cực kỳ phản dân chủ.

Linh mục Nguyễn Văn Lý là một trong những người soạn thảo “Tuyên Ngôn 2006”, một trong những người cổ vũ và lãnh đạo năng nổ nhất của Khối 8406 và Liên Minh Dân Chủ Nhân Quyền Việt Nam (LMDCNQVN), một trong những người giúp đỡ cho sự ra đời của Đảng Thăng Tiến Việt Nam, một trong những người đã cho ra mắt tờ bán nguyệt san Tự Do Ngôn Luận, tờ báo không xin phép đầu tiên dưới chế độ độc tài toàn trị. Linh mục Lý cũng là một trong những người đầu tiên xướng xuất việc tẩy chay trò hề bầu cử Quốc hội. Chính vì thế, kẻ cầm quyền Hà Nội hướng mũi nhọn khủng bố trước tiên vào ông.

Đúng vào dịp Tết Nguyên đán (18.2.07), họ đã tung một lực lượng công an đông đảo xông vào chỗ ở của Linh mục ngay trong Nhà chung Tòa Tổng giám mục Huế, khám xét, lùng sục, tịch thu máy vi tính, giấy tờ tài liệu, điện thoại cầm tay, rồi sau đó bắt ông giam ở Bến Củi chờ ngày xử án. Cũng trong thời gian đó, công an đã bắt bốn người cộng sự của ông là các thành viên Khối 8406, đảng viên Đảng Thăng Tiến Việt Nam, như Nguyễn Phong, Nguyễn Bình Thành, Lê Thị Lệ Hằng và Hoàng Thị Anh Đào. Bằng dung doạ, cưỡng ép, họ đã bắt Nguyễn Phong viết tuyên bố giải tán Đảng Thăng Tiến Việt Nam và viết thư cho ông Nguyễn Công Bằng, chủ tịch Đảng Vì Dân, để giải tán Liên Đảng Lạc Hồng.

Kẻ cầm quyền tin chắc rằng sau khi đã khuất phục được Nguyễn Phong thì tại phiên toà, Nguyễn Phong cùng với những người cộng sự của anh ta sẽ là nhân chứng để dễ dàng trị tội Linh mục Lý, nên họ đã vội vã lập phiên toà để xử ông cùng các chiến hữu của ông. Thế nhưng, họ đã lầm to! Tại phiên toà ở Huế (30.3.07), Linh mục Lý đã biểu lộ dũng khí của một chiến sĩ dân chủ kiên cường và bất khuất: dù ở trong vị thế “bị cáo nhân”, nhưng Linh mục đã luôn luôn thể hiện tinh thần đấu tranh bất khuất, thái độ quyết liệt phản đối toà án bất công, bộc lộ rõ sự phủ nhận “công lý” cộng sản, “toà án” cộng sản khoác tấm áo mỹ miều “toà án nhân dân” mà thực chất mang chức năng gọi là “chuyên chính vô sản” cực kỳ ác độc.

Theo dõi kỹ phiên toà qua đoạn phim (video clip) mà một nhà báo ngoại quốc đã ghi được và bài tường thuật cuộc xử án tại Huế của phóng viên FNA, chúng ta thấy rõ ngay từ đầu cái tinh thần của Linh mục Lý là phủ định “công lý” lộn ngược của ĐCS, “toà án” giả hiệu của ĐCS, và nói rộng hơn, phủ định tính chính thống của chính quyền và chế độ hiện tồn ở Việt Nam trong bàn tay của ĐCS. (1)

Xin đơn cử vài điều để thấy được cái tinh thần đó của Linh mục Lý ngay tại phiên xử: khi đến toà án ông không tự đi mà cố ghì mình lại để cho công an phải xốc nách lôi vào phòng xử; khi chủ toạ phiên toà (chánh án) đọc lời khai mạc thì ông đọc to bài thơ “toà án cộng sản Việt Nam...” của ông mà ông đã cố ý cho công bố từ trước trên mạng Internet, nên bị công an bịt miệng kéo ra khỏi phòng xử; khi bị công an đưa vào phòng xử lần thứ hai để nghe đọc và xác nhận lý lịch thì ông lại vùng vẫy, dùng chân đá nhào vành móng ngựa, miệng phẫn nộ tố cáo, công an lại bịt miệng và lôi ông ra khỏi phòng; khi chủ toạ phiên toà lấy lời khai từng bị cáo thì ông lại bị lôi vào phòng xử lần thứ ba và lần này ông hô to “đả đảo toà án cộng sản Việt Nam!” và công an lại bị bịt miệng lần thứ ba và lôi ông ra khỏi phòng xử... Chính cái tinh thần mãnh liệt đó của ông đã giáng một đòn mạnh vào cái gọi là “công lý” cộng sản Việt Nam làm cho nó bị động, phải tự phơi bày chân tướng độc tài của nó trước công luận toàn thế giới: toà án của ĐCSVN đã công nhiên ba lần bịt miệng bị cáo ngay tại phiên toà! Và tấm hình “bịt miệng” Linh mục Lý đã nhanh chóng loan truyền khắp toàn cầu tố cáo tính chất độc tài toàn trị của chế độ “xã hội chủ nghĩa” Việt Nam, một chế độ có tính phát xít còn đậm nét hơn cả chế độ Hitler, vì ngay dưới chế độ Hitler, khi xử án G. Dimitrov thì ông này vẫn được phát biểu rất lâu mà không một ai “bịt miệng” ông ta cả!

Có người cho rằng hành động của Linh mục Lý tại phiên toà là quá đáng. Nhưng chúng tôi lại thấy hoàn toàn khác! Sự biểu thị tinh thần phản đối “luật pháp” bất công, phi nhân và thái độ quyết liệt phủ nhận “toà án” giả hiệu của ĐCS là một hành động đúng đắn, cần thiết, miễn là hành động đó không vượt ra ngoài những phương thức bất bạo động. Không có tinh thần và thái độ phủ định đó thì làm sao có ý chí để chuyển hoá xã hội được? làm sao biến đổi tâm lý và ý thức xã hội được? Trong những cuộc “cách mạng nhung” ở Đông Âu, các chiến sĩ dân chủ cũng đã từng có tinh thần và thái độ phủ định mạnh lắm đối với chế độ toàn trị của ĐCS và đã phải hành động quyết liệt lắm mới giành được tự do, mới thoát khỏi cường quyền cộng sản, và chính từ cuộc “cách mạng nhung” đó mới nảy sinh ra những vị anh hùng, như Lech Walesa ở Ba Lan, Vaclav Havel ở Tiệp Khắc! Ngay như vị tổ sư của “chủ thuyết bất bạo động” là cụ Gandhi (1869-1948) ở Ấn Độ mà dân châu Á ta thường coi là bậc thánh, cụ cũng đã từng có tinh thần và thái độ phủ định mãnh liệt lắm đối với chế độ thực dân Anh và phải hành động quyết liệt, dữ dội lắm thì mới giành được một cách hoà bình nền độc lập cho nước Ấn Độ. Còn Linh mục Lý, một tù nhân chính trị và lương tâm từng bị đoạ đày khốn khổ hàng mấy chục năm trời trong ngục tù cộng sản, lần này lại bị lôi ra toà lần nữa, tay bị còng, miệng bị bịt, chỉ còn có chân chưa bị cùm thì ông bực bội dùng chân đá nhào vành móng ngựa – vật biểu trưng cho cái “công lý” lộn ngược của ĐCS, thế thì thử hỏi: có gì là quá đáng? Trước toà án của chế độ độc tài toàn trị, mà người dân chủ cứ “nhũn như con chi chi”, “gọi dạ bảo vâng” thì còn gì là dũng khí, còn gì là khí thế của một chiến sĩ đấu tranh vì chính nghĩa tự do dân chủ và nhân quyền?

Cũng trái với sự mong đợi của kẻ cầm quyền, mấy ngày trước phiên toà, Nguyễn Phong đã phát ra trên mạng Internet lời tuyên bố ghi âm và viết tay của anh để tỏ rõ thái độ cương quyết tiếp tục đấu tranh vì tự do dân chủ và nhân quyền; còn tại toà án, tất cả bốn người thuộc Đảng Thăng Tiến đều đồng loạt phản cung, Nguyễn Phong và Nguyễn Bình Thành đều nói chúng tôi không có tội gì khi đấu tranh cho tự do và nhân quyền.

Chủ toạ phiên toà đã đọc bản án định sẵn từ trước cho các bị cáo: Linh mục Lý – 8 năm tù giam, 5 năm “tù” quản chế, Nguyễn Phong – 6 năm tù giam, 3 năm “tù” quản chế, Nguyễn Bình Thành – 5 năm tù giam, 2 năm “tù” quản chế, Hoàng Thị Anh Đào – 2 năm tù treo, Lê Thị Lệ Hằng – 1 năm rưỡi tù treo. Một mức án rất nặng và cực kỳ vô nhân đạo, nhất là đối với một người cao niên, 60 tuổi, đang bị lao nặng.

Phân tích kỹ mọi hệ quả của phiên toà tại Huế, chúng ta có thể khẳng định là những người chiến thắng trong trận chiến đấu đầu tiên này không phải là ĐCSVN mà chính là các chiến sĩ dân chủ, đứng đầu là Linh mục Lý. Họ đã thắng lớn, trước tiên là về mặt tinh thần và sau đó là về mặt chính trị. Chính nhờ tinh thần anh hùng bất khuất của Linh mục Lý và các chiến hữu của ông mà chế độ độc tài toàn trị của ĐCS bị bêu xấu trên khắp thế giới, bộ mặt chính trị của chế độ đó bị phỉ nhổ tả tơi trước công luận toàn cầu. Đây là một thực tế, chứ không phải là điều suy luận viễn vông.

Những chiến trận tiếp theo

Cũng vào đầu tháng 3, kẻ cầm quyền đã ra lệnh cho công an bắt giữ Luật sư Nguyễn Văn Đài và Luật sư Lê Thị Công Nhân, hai thành viên Khối 8406, riêng cô Công Nhân còn là phát ngôn viên của Đảng Thăng Tiến Việt Nam. Đây là hai nhà dân chủ trẻ tuổi hoạt động năng nổ cho dân chủ và nhân quyền. Ngay trước ngày bị bắt, Luật sư Công Nhân đã biểu lộ hào khí của một chiến sĩ dân chủ bất khuất khi cô chân thành tuyên bố trên Diễn đàn Dân chủ lúc 3 giờ 40 phút sáng ngày 26.2.07: “... thật sự tôi cũng không đoán trước được cụ thể những việc gì sẽ xảy ra với tôi. Nhưng tôi xin khẳng định bằng tất cả lương tâm, trách nhiệm và tình cảm của mình đối với đất nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam là tôi sẽ chiến đấu tới cùng cho dù chỉ còn một mình tôi để đấu tranh, trước hết là để giành lấy nhân quyền cho chính mình, và giành lấy nhân quyền, dân chủ và tự do cho người Việt Nam. Và Cộng sản Việt Nam đừng có mong chờ bất kỳ một điều gì là thoả hiệp, chứ đừng nói là đầu hàng từ phía tôi... Gia đình tôi đã chuẩn bị cho trường hợp xấu nhất, đó là tôi sẽ bị khởi tố và có thể bị đi tù, nhưng tôi xin khẳng định một lần nữa đó vẫn chưa phải là điều tồi tệ nhất có thể xảy ra...”

Và tại phiên toà xử vội vàng và chiếu lệ ở Hà Nội vào cuối thượng tuần tháng 5, kéo dài khoảng bốn tiếng đồng hồ, Luật sư Đài và Luật sư Công Nhân đã biểu lộ khí phách hào hùng của mình. Luật sư Đài dõng dạc nói tại toà là ông không vi phạm bất cứ luật nào mà chỉ đơn thuần thực hiện quyền tự do ngôn luận và tự do lập hội. Còn Luật sư Công Nhân cũng khẳng định là cô không phạm tội gì hết. Theo lời tường thuật của hãng thông tấn Associated Press (AP), khi công tố viên (trong nước gọi là kiểm sát viên) hỏi Luật sư Công Nhân: “Các hành vi này của cô có phải là một tội hình sự hay không? ”, Công Nhân khẳng khái đáp: “Hẳn nhiên là không!”, còn trước khi kết thúc phiên xử, cô phát biểu ngắn gọn rằng: “Phiên toà hôm nay không hợp lệ. Tôi phản đối phiên toà này.

Xem lại đoạn video clip (http://youtube.com/watch?v=p-szTITbIY), sau lời giới thiệu (có lẽ là của công an) nói rằng: “trong trại tạm giam, Nhân vẫn giữ thái độ bất hợp tác và không hề tỏ ra ăn năn hối hận đối với những việc làm của mình” là lời khai khẳng khái của Luật sư Lê Thị Công Nhân: “... dù tôi có tham gia vào những việc làm này nọ, có viết những bài và có trả lời này nọ cho các đài, tôi cảm thấy thoả mãn cái lý tưởng của mình, sự hiểu biết của mình và tổ chức của mình...” Thật là khí phách của một nữ anh hùng của thời đại ngày nay!

Những việc làm của hai luật sư trẻ thực ra hoàn toàn vô tội, họ chỉ sử dụng quyền hiến định của công dân là phát biểu ý kiến của mình, thế nhưng toà án của ĐCS cũng kết án Luật sư Đài 5 năm tù giam, 4 năm “tù” quản chế, và Luật sư Công Nhân 4 năm tù giam, 3 năm “tù” quản chế! Khách nước ngoài được đến theo dõi phiên xử án ở phòng bên cạnh đều nói lên sự bất công của toà án Hà Nội. Bà Angela Aggelier, tuỳ viên báo chí của sứ quán Hoa Kỳ nói với BBC: "Chúng tôi không hề thấy họ có hành vi nào trái với quyền của họ là được quyền bày tỏ chính kiến một cách hòa bình mà việc bày tỏ này được luật pháp quốc tế công nhận." Còn nhà ngoại giao của Liên Hiệp Châu Âu, ông Alexis Andres, thì bảo rằng: "Bằng chứng buộc tội ông Đài và cô Nhân rất yếu và bản án như thế thật là quá đáng.”

Trong trận chiến đấu thứ hai này, người thắng vẫn là hai chiến sĩ dân chủ dũng cảm – Luật sư Nguyễn Văn Đài và Luật sư Lê Thị Công Nhân. Họ đã tỏ rõ khí phách hào hùng của những bậc hào kiệt trẻ trung, xứng đáng là những kẻ sĩ của đất Thăng Long thời đại mới.

Cũng vào cuối thượng tuần tháng 5, ở miền Nam, tại Sài Gòn, toà án của ĐCS đã mở phiên xử ba nhà hoạt động dân chủ bất đồng chính kiến, thành viên Đảng Dân Chủ Nhân Dân, là Bác sĩ Lê Nguyên Sang, Luật sư Nguyễn Bắc Truyển và ký giả Huỳnh Nguyên Đạo. Cũng giống như những người khác bị đưa ra xử tại Huế và Hà Nội, họ đều bị buộc tội vi phạm điều 88 bộ luật hình sự, tức là tuyên truyền chống nhà nước xã hội chủ nghĩa. Họ bị kết án nặng nề - ông Sang 5 năm tù giam, ông Truyển 4 năm tù giam và ông Đạo 3 năm tù giam. Qua tấm hình do hãng Reuters đưa ra, người ta dễ nhận thấy cái nhìn khinh mạn của Bác sĩ Sang và thái độ bình tĩnh, đàng hoàng của hai bị cáo khác.

Cũng tại Sài Gòn, ngày 15.5, toà án của ĐCS đã vội vã xử Luật sư Trần Quốc Hiền, Giám đốc Công ty Tư vấn luật Sài Gòn, thành viên Khối 8406, phát ngôn viên của Hiệp Hội Đoàn Kết Công Nông Việt Nam, một trong những người giúp đỡ cho “dân oan”. Ông cũng bị ghép tội tuyên truyền chống nhà nước xã hội chủ nghĩa và bị kết án 5 năm tù giam, 4 năm “tù” quản chế.

Như vậy là cả trong mấy trận chiến đấu tiếp theo ở Hà Nội và Sài Gòn, ĐCS đã không thể đè bẹp được ý chí kiên cường của các chiến sĩ dân chủ, và người chiến thắng về mặt tinh thần và chính trị vẫn là các chiến sĩ dân chủ.

ĐCS ở trong thế yếu của kẻ đuối lý, đang bị mất mặt

Những cuộc xử án vội vã từ Bắc Trung Nam vừa qua không hề chứng tỏ là ĐCS và chế độ độc tài toàn trị mạnh, vì một nhà nước mạnh không bao giờ làm những chuyện trắng trợn và thô bỉ đến mức côn đồ như vậy. Những cuộc xử án đó bộc lộ sự hốt hoảng, run sợ của ĐCS trước phong trào dân chủ đang lên, bộc lộ thế yếu và sự lúng túng của họ, của những kẻ đuối lý đâm ra... cắn càn. Sau những vụ xử án này, chế độ độc tài của ĐCS càng thêm bị cô lập trên trường thế giới, công luận càng thấy rõ tính xảo trá của đám lãnh đạo mới lên, huênh hoang tuyên bố này nọ để đánh lừa thế giới, như Nguyễn Tấn Dũng chẳng hạn, kỳ thật trước sau họ vẫn là những kẻ độc tài cực kỳ hung ác.

Chính vì thế, ngay sau khi phiên toà ở Huế, Hà Nội và Sài Gòn vừa kết thúc, Quốc Hội Hoa Kỳ, Nghị Viện Liên Hiệp Châu Âu (EU), chính phủ Đức... đã ra tuyên bố phản đối Hà Nội và đòi Hà Nội phải trả tự do ngay cho các tù nhân chính trị, 141 tổ chức nhân quyền quốc gia họp tại Đại Hội Nhân Quyền Thế Giới ở Lisbon (25.4.2007), Nhóm Hiến Chương 77 (Tiệp Khắc), Tổ chức Phóng viên không biên giới (RSF), hàng nghìn người dân ở Warszawa, Praha, Australia, Canada, Hoa Kỳ, Pháp... đã lên tiếng tố cáo Hà Nội đàn áp các nhà dân chủ. Đây là những bằng chứng để suy ngẫm về sự “ai thắng ai" trong các trận chiến đấu không cân sức này!

“Lửa thử vàng!"

Người ta thường nói “lửa thử vàng, gian nan thử đức". Chính trong lúc nguy nan, trong cuộc đọ sức vô cùng quyết liệt với đối phương thì mới dễ dàng bộc lộ - một mặt, tính hèn yếu của một số người nhút nhát, và mặt khác, tinh thần anh hùng, bất khuất của những chiến sĩ gan dạ. Nhìn lại những trận chiến đấu vừa qua, chúng ta vui mừng nhận thấy rằng cho đến ngày hôm nay, chưa có một ai trong số các chiến sĩ dân chủ của chúng ta khi giáp trận đã chịu “bó gối quy hàng", trái lại trong cơn bão táp bạo tàn mà ĐCS gây ra, đã xuất hiện nhiều vị anh hùng đáng kính của Tổ Quốc và Dân Tộc Việt Nam!

Không anh hùng sao được, khi các chiến sĩ dân chủ của chúng ta dám từ bỏ hạnh phúc riêng tư đang có của mình để lao vào con đường đấu tranh đầy chông gai, dấn thân vào “chốn dầu sôi lửa bỏng” hòng cứu nguy cho Tổ Quốc và Dân Tộc đang bị khốn khổ trong “bàn tay lông lá” của bọn độc tài toàn trị, trong lúc đó thì nhiều trí thức, thanh niên... hoàn toàn thờ ơ với số phận đất nước, cam phận nô lệ, thậm chí có kẻ còn cam tâm uốn mình làm thân tôi tớ cho “lũ giặc nội xâm”? Không anh hùng sao được, khi trước nanh vuốt của công an, toà án, bạo quyền độc ác, các chiến sĩ dân chủ của chúng ta vẫn hiên ngang, khẳng khái kiên định lý tưởng tự do dân chủ và ý chí đấu tranh đến cùng cho lý tưởng đó? Không anh hùng sao được, khi trước cả một bộ máy đàn áp khủng bố đồ sộ của ĐCS, các chiến sĩ dân chủ của chúng ta tỏ rõ thái độ khinh mạn, chấp nhận cảnh tù đày với muôn vàn thiếu thốn, khó khăn để khẳng định niềm tin vào lý tưởng cao đẹp của mình, khẳng định tinh thần hiến thân vì tự do dân chủ cho dân tộc? Tin chắc rằng sử sách chân chính của Tổ Quốc rồi đây sẽ muôn đời ghi tên của những anh hùng mới trong phong trào dân chủ nước ta! Cũng xin nói thêm, chẳng những các chiến sĩ dân chủ đã bộc lộ lòng dũng cảm, bất khuất, mà ngay cả nhiều người thân, như mẹ và vợ của họ cũng tỏ thái độ kiên cường không kém, chẳng những họ không biết sợ mà lại hết lòng bênh vực lẽ phải, ủng hộ lý tưởng của các chiến sĩ dân chủ thân yêu. Chúng tôi muốn nhắc đến bà Trần Thị Lệ, thân mẫu của nữ Luật sư Lê Thị Công Nhân, bà Bùi Thị Kim Ngân – vợ ông Nguyễn Vũ Bình, bà Vũ Thúy Hà – vợ ông Phạm Hồng Sơn, bà Vũ Thị Minh Khánh – vợ ông Nguyễn Văn Đài, và nhiều người khác.

Cuộc chiến vẫn còn tiếp diễn

Trong cơn hoảng loạn, vừa qua ĐCS đã xua công an bắt bớ hàng mấy chục người dân chủ trong cả nước. Ngày 16.3.07, họ đã bắt giữ Phương Nam Đỗ Nam Hải và dùng sức ép của tình cảm gia đình, cụ thể là người cha già đang bệnh, chị gái và con gái của anh để buộc anh phải viết “lời thú tội” nên anh đành phải chấp nhận để bảo vệ sinh mạng cho cha già. Nhưng khi công an ép anh phải tuyên bố giải tán Khối 8406 và LMDCNQVN thì anh cương quyết từ chối. Và đến ngày 4.5.07, Đỗ Nam Hải đã tuyên bố: “lời thú tội” mà anh buộc lòng phải viết và đọc hôm 16.3.07 là hoàn toàn vô giá trị, và anh “sẽ tiếp tục cùng dân tộc đấu tranh giành lại tự do dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam cho tới khi thắng lợi hoàn toàn”. Người viết bài này biết rõ Đỗ Nam Hải từ thời kỳ anh còn là sinh viên du học ở Úc. Anh là một thanh niên dũng cảm, có chí khí, cho nên chúng tôi cho rằng việc Nam Hải phải viết “lời thú tội” chỉ là một bước lùi để đối phó với tình thế ngặt nghèo của gia đình, chứ không phải là sự khuất phục, càng không phải là sự đầu hàng, như có người lầm tưởng. Chính vì thế, trong thông báo ngày 11.5.07, LMDCNQVN đã nhiệt liệt chào mừng Đỗ Nam Hải quay trở lại phong trào và bổ sung anh trở lại vào Ban Điều hành LMDCNQVN.

Ngày 21.4.07, công an đã bắt giam nhà văn Trần Khải Thanh Thuỷ, mặc dù chị đang điều trị bệnh lao phổi và bệnh tiểu đường. Họ dự định sẽ đưa chị ra toà vào tháng 6 sắp tới. Thanh Thuỷ đã tiên đoán được cái kết cục đó từ lâu và cũng từ lâu chị đã chuẩn bị tinh thần cho cuộc chiến đấu sắp tới. Xin nhắc lại bài tuyệt bút chị viết từ tháng 10.2002:

Thay lời tiễn biệt

Khi tôi chết, hãy ghi trên huyệt mộ

“Đây là người yêu nước thương dân

Dùng cán bút làm đòn xoay chế độ

Đưa nhân dân ra khỏi kiếp bần hàn.”

Tuổi bốn mươi khi nghĩa đời đã tỏ

Thì cùm gông xiềng xích sá kể gì

Theo gương bậc tiền bối tôi đi

Vá lại mảnh trời xanh Tổ Quốc

Vạch mặt lũ đê hèn, quân bán nước

Nhân danh đảng, Tổ Quốc lộng hành

Chúng cấu kết, chúng ăn chia

Còn chúng nó, dân ta còn phải khổ.

Nếu tôi chết, xin nuôi bầy con nhỏ

Chúng nó đáng thương nào có tội tình gì

Khi cha mẹ đứng lên đòi sự sống

Cho giống nòi và cả cho mai sau.

Nếu tôi chết...

Và không lâu trước ngày bị bắt, nhà văn Trần Khải Thanh Thuỷ đã tự ghi sau tên mình một danh xưng là “tù nhân dự khuyết của ĐCS”. Với tinh thần khẳng khái, quyết liệt vốn có của Trần Khải Thanh Thuỷ, chúng ta tin chắc rằng chị sẽ vượt qua trận chiến này một cách vẻ vang.

Ngay từ tháng 11.2006, hoảng sợ trước sự trổi dậy của phong trào công nông với sự ra đời của Hiệp Hội Đoàn Kết Công Nông Việt Nam do người công nhân Nguyễn Tấn Hoành, 22 tuổi, sáng lập và lãnh đạo, ĐCS đã cho bắt hàng loạt người sáng lập Hiệp Hội. Ngoài Nguyễn Tấn Hoành, họ đã bắt Trần Thị Lệ Hằng, tức Trần Thị Lê Hồng, Đoàn Huy Chương, tức Hoàng Huy Chương, Đoàn Văn Diên, cha của Đoàn Huy Chương, Lê Văn Sỹ, Nguyễn Thị Tuyết, Lê Bá Triết, Nguyễn Tuấn. Hai thiếu niên Đoàn Triệu Hải, tức Hảo, 16 tuổi và Đoàn Triệu Kinh Kha, 14 tuổi, con của Đoàn Văn Diên cũng bị bắt để làm áp lực bắt cha, sau một thời gian giam giữ hai em đã được thả ra. Còn Luật sư Trần Quốc Hiền, phát ngôn viên của Hiệp Hội Đoàn Kết Công Nông, đã bị bắt tháng 1.2007 và đã bị đưa ra xử tại Sài Gòn, như đã nói trên.

Thêm nữa, đầu tháng 5.2007, kẻ cầm quyền cũng đã tổ chức phiên toà tại tỉnh Đồng Tháp để xử bốn tín đồ Phật Giáo Hoà Hảo Thuần Tuý (PGHHTT) là ông Nguyễn Văn Thơ, Hội trưởng Giáo Hội PGHHTT tỉnh Đồng Tháp, bà Dương Thị Trân, Hội trưởng Phụ Nữ Từ Thiện PGHHTT và là vợ ông Thơ, ông Lê Văn Sóc, Phó Hội trưởng Giáo Hội PGHHTT tỉnh Vĩnh Long, ông Nguyễn Văn Thuỳ, Tổng Vụ Thanh Niên PGHHTT tỉnh Vĩnh Long chỉ vì họ đấu tranh đòi quyền tự do tín ngưỡng. Họ đều bị kết án rất nặng: ông Thơ 6 năm tù giam, bà Trân 4 năm tù giam, ông Sóc 6 năm tù giam, ông Thuỳ 5 năm tù giam. Cũng như tại mọi phiên toà của chế độ độc tài toàn trị ở Việt Nam, các bị cáo không được quyền bào chữa, không có luật sư biện hộ, thân nhân bị cáo không được có mặt và phiên toà không có giới báo chí tham dự.

Vẫn chưa hết, công an còn bắt giam nhiều nhà trí thức dân chủ khác, như Luật sư Nguyễn Thị Thuỳ Trang, Luật sư Lê Quốc Quân (được Quỹ Quốc gia Yểm trợ Dân chủ Mỹ - National Endowment for Democracy - cấp học bổng du học 5 tháng tại Hoa Kỳ và được Hà Nội đồng ý cho đi, thế mà khi ông vừa về đến nhà ở Nghệ An thì bị bắt ngay), doanh gia Trương Quốc Huy, ông Hồng Trung, bà Hồ Thị Bích Khương (“dân oan” ở Nghệ An, thành viên Khối 8406), hai Thượng toạ Thích Thiện Tâm và Thích Huệ Lâm thuộc Giáo Hội Phật Giáo VN Thống Nhất ở Bình Thuận, 9 tín đồ Đạo Cao Đài, 10 tín đồ Phật Giáo Hoà Hảo, và hơn 350 đồng bào Thượng theo đạo Tin Lành ở Cao nguyên miền Trung... Độc ác nhất là công an đã bắt Luật sư Bùi Thị Kim Thành (người tích cực giúp đỡ, bênh vực cho “dân oan” miền Tây) nhốt vào Bệnh viện Tâm thần ở Biên Hoà, mặc dù nhiều bác sĩ địa phương xác nhận rằng tâm thần của bà bình thường. Họ đã chích hàng chục mũi thuốc để làm cho tinh thần bà bại hoại. Công an cũng đang truy nã giáo sư Nguyễn Chính Kết, săn lùng ráo riết các ông Lê Trí Tuệ, Trương Quốc Tuấn, Bạch Ngọc Dương, Trần Văn Hoà... làm một số người đã phải “vượt biên” ra nước ngoài.

Như vậy là cuộc chiến vẫn còn đang tiếp diễn. Cố nhiên, qua những trận bão táp dữ dội này, về mặt nhân sự, phong trào dân chủ bị sứt mẻ nặng nề: những nhân vật trụ cột của phong trào – nói theo cách diễn đạt của Luật sư Công Nhân – “bị buộc phải hy sinh chấp nhận những nhiệm sở bất đắc dĩ”! Nhưng phong trào vẫn không bị dẹp tan. Biết bao tiếng nói dũng cảm của những người dân chủ trong nước vẫn còn vang lên mạnh mẽ. Khối 8406, LMDCNQVN, Đảng Thăng Tiến, Đảng Lạc Hồng, Đảng Dân Chủ Nhân Dân... vẫn tồn tại, các tờ bán nguyệt san Tự Do Ngôn Luận, Tổ Quốc, tập san Tự Do Dân Chủ... vẫn tiếp tục phát hành đều đặn... Nhiều tổ chức đã bắt đầu chuyển hướng cách hoạt động cho thích hợp hơn với tình thế mới.

Khủng bố không hề thắng được khát vọng tự do!

Cũng xin nhắc lại, đây chẳng phải là lần đầu tiên ĐCS tung đòn khủng bố đàn áp đối với phong trào dân chủ. Kể từ lúc phong trào mới manh nha cách đây trên 50 năm – chúng tôi muốn nói đến trào lưu Nhân Văn Giai Phẩm, khi một số văn nghệ sĩ, trí thức rụt rè đòi tự do dân chủ, nhất là tự do sáng tác – ĐCS đã giáng một đòn khủng bố ghê rợn đến nỗi hàng trăm trí thức, văn nghệ sĩ đã bị đoạ đày khốn khổ trên ba chục năm trời ròng rã, nhiều người phải ngồi tù dài hạn, như nhà văn hoá Nguyễn Hữu Đang - 15 năm, nhà văn Thuỵ An - 15 năm, nhà thơ Phùng Cung - 12 năm, nhà xuất bản Trần Thiếu Bảo (Minh Đức) - 10 năm, người ít nhất cũng phải 3–4 năm. Hồi đó, đã có nhiều người khiếp sợ, một số ít đã khuất phục, thậm chí có người đầu hàng. Nhưng hồn tự do bất diệt vẫn sôi sục trong huyết quản trí thức, văn nghệ sĩ, và nhiều người vẫn kiên cường giữ vững khí phách kẻ sĩ. Đó là những Phan Khôi, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Hữu Đang, Phùng Cung, Phùng Quán, Hữu Loan, Trương Tửu...

Tiếp đến trận đàn áp cực kỳ khốc liệt những cán bộ đảng viên có tinh thần dân chủ dám có ý kiến bất đồng với ban lãnh đạo ĐCS: đó là vụ án “Xét Lại – Chống Đảng”. Hơn bốn năm chục cán bộ từ cao, trung cấp trở xuống, nhiều nhà báo, nhà văn... đã bị tống giam vào ngục tù, nhiều người bị “tù” tại gia. Biết bao người đã phải chết âm thầm trong uất hận, như Phạm Viết, Bùi Công Trừng, Đặng Kim Giang, Vũ Đình Huỳnh, Lê Liêm... Thế nhưng ĐCS vẫn không thể đè bẹp được ý chí đấu tranh cho lý tưởng tự do dân chủ. Tấm gương kiên cường của cụ Hoàng Minh Chính, người đã ngồi tù giam cũng như “tù” tại gia cho đến nay, nghĩa là trên 30 năm trời, vị anh hùng bất khuất của đối lập dân chủ Việt Nam, đã khích lệ rất nhiều cho các thế hệ dân chủ hậu sinh.

Rồi tiếp đến những hoạt động của Câu Lạc Bộ Những Người Kháng Chiến Cũ do cụ Nguyễn Hộ, cựu chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam, một nhà cách mạng lão thành của ĐCS làm chủ nhiệm. Một cao trào dân chủ đã dấy lên với những cuộc thảo luận sôi nổi về tự do dân chủ, với việc xuất bản báo Truyền Thống Kháng Chiến... làm ĐCS hoảng sợ, vội vã đàn áp. Nhiều vị công thần của Đảng, như Nguyễn Hộ, Đỗ Trung Hiếu, Tạ Bá Tòng, Hồ Hiếu, Đỗ Đình Mạnh... đã bị bắt giam. Nhưng chính lúc này lại xuất hiện thêm những chiến sĩ dân chủ kiên cường khác, như cụ Nguyễn Văn Trấn, Linh mục Chân Tín, trung tướng Trần Độ, các ông Lê Hồng Hà, Phạm Quế Dương, Nguyễn Thanh Giang, Trần Khuê, Hà Sỹ Phu, Mai Thái Lĩnh, Trần Anh Kim, nhà thơ Bùi Minh Quốc, các nhà văn Dương Thu Hương, Tiêu Dao Bảo Cự... Trong số những người xuất thân từ chế độ Việt Nam Cộng Hoà, đã có những người rất nổi bật, như bác sĩ Nguyễn Đan Quế với Cao Trào Nhân Bản, ông Nguyễn Đình Huy, người đứng đầu Phong Trào Thống Nhất Dân Tộc và Xây Dựng Dân Chủ, giáo sư Đoàn Viết Hoạt với tờ Diễn Đàn Tự Do, hai vị Hoà thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, các Thượng toạ Thích Thích Thiện Minh, Thích Tuệ Sỹ, Thích Không Tánh, Linh mục Nguyễn Văn Lý...

Như vậy là trong suốt nửa cuối thế kỷ 20, dù đàn áp tàn bạo, khủng bố khốc liệt đến đâu, nhưng ĐCS vẫn không thể đè bẹp được phong trào dân chủ nước ta. Còn nếu tính từ đầu thế kỷ 21 đến nay, thì chúng ta cũng đã từng chứng kiến trận đàn áp khốc liệt vào năm 2002, khi Nông Đức Mạnh vừa mới lên ngôi vị Tổng bí thư của ĐCS. Hàng chục chiến sĩ dân chủ đã bị câu lưu, bị bắt bớ, bị tù giam hay “tù” tại gia, tại chùa, tại nhà thờ, đó là những Vũ Cao Quận, Hoàng Minh Chính, Trần Độ, Nguyễn Đan Quế, Lê Hồng Hà, Trần Dũng Tiến, Hà Sỹ Phu, Nguyễn Thanh Giang, Hoàng Tiến, Trần Khuê, Nguyễn Thị Thanh Xuân, Nguyễn Vũ Bình, Phạm Hồng Sơn, Lê Chí Quang, Nguyễn Khắc Toàn, Trần Anh Kim, Nguyễn Đắc Kính, Đào Quang Tiến, Dương Sơn, Dương Hùng, hai vị Hoà thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, các Thượng toạ Thích Tuệ Sỹ, Thích Thiện Minh, Thích Không Tánh, các Linh mục Nguyễn Văn Lý, Phan Văn Lợi, Nguyễn Hữu Giải, cụ Lê Quang Liêm (hội trưởng PGHHTT), các Mục sư Nguyễn Hồng Quang, Nguyễn Công Chính... Thế nhưng, phong trào vẫn giữ vững và đến năm 2006 thì ngày càng khởi sắc đến nỗi ĐCS lại phải tung ra trận đàn áp dữ dội lần này. Trong trận chiến đấu mới này lại xuất hiện thêm những anh hùng mới của dân tộc như nhiều người đã biết. Chúng ta có thể tin chắc rằng phong trào hiện đang được duy trì và sẽ lại có ngày khởi phát mạnh mẽ, vì không có gì có thể đè bẹp được ý chí tự do của những con người có lương tâm và trí tuệ.

Chúng ta cũng tin chắc rằng tuổi trẻ còn có tim óc của dân tộc ta sẽ lắng nghe lời tâm huyết của Luật sư Lê Thị Công Nhân: “...Những gì mà tôi làm được, tuy hết sức nhỏ bé, nhưng nếu như từng cá nhân chúng ta tự coi mình là con người mà lại thờ ơ trước số phận chính trị của mình cũng như của dân tộc Việt Nam mà chưa ủng hộ, hay ủng hộ rồi mà chưa tham gia, hay tham gia mà chưa tích cực, thì xin hãy mạnh dạn, can đảm nói lên tiếng nói của mình!” và rất nhiều người “sẽ tiếp tục đứng lên gánh vác những công việc còn đang dang dở của chúng tôi” (2).

Như vậy thì chúng ta có đầy đủ lý do để tin tưởng, một khi các chiến sĩ dân chủ dũng cảm đã vươn lên trong trận bão táp bạo tàn vừa qua, nêu cao tấm gương anh hùng cho toàn dân tộc và tuổi trẻ nước ta, thì chắc chắn là phong trào dân chủ sẽ còn vươn lên nữa, bất chấp mọi trận bão táp dữ dội mà ĐCS sẽ gây ra. Còn chế độ bạo tàn, độc tài toàn trị của ĐCS chắc chắn rồi đây sẽ sụp đổ tan tành trong trận bão táp của lòng phẫn nộ và căm hờn xuất phát từ đại chúng khổ đau, bị lừa bịp, bị áp bức, bị đè nén, bị oan khuất và bị tước đoạt mọi quyền tự do dân chủ trên sáu thập niên rồi, sẽ dũng mãnh đứng lên đòi quyền sống của mình./.

Moskva 21.5.2007

Nguyễn Minh Cần

1. Vì trên thực tế, sau cuộc Cách mạng tháng 8.1945, ĐCS đã tiếm quyền tự quyết của nhân dân: từ khi ĐCS cướp được chính quyền cho đến ngày nay, chưa hề có một cuộc bầu cử nào đáng gọi là dân chủ để biểu hiện được ý chí của toàn dân, mà mọi cuộc bầu cử từ cơ quan quyền lực tối cao (quốc hội) đến các cơ quan dân cử địa phương đều chỉ là những trò hề giả dối theo lối “đảng cử dân bầu”.

2. Những chữ nghiêng trong ngoặc là lời Lê Thị Công Nhân nói trên Diễn đàn Dân chủ ngày 26.2.07.

Monday, May 14, 2007

XHCN: CUA AN CUOP MA! CO GI DAU MA NHUC NHA!

CHUYỆN DÀI "XÃ HỘI CHỦ NGHĨA"
(LÊN MẠNG Thứ hai 11, Tháng Mười 2004)

Trường Sơn DHN
(VNN)

CON NGƯờI MỚI
khố rách áo ôm XÃ HộI CHỦ NGHĨA !

Từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, sau khi tiến chiếm xong Miền Nam, Cộng sản Việt Nam thường tỏ ra rất là tự kiêu tự đắc với ý thức hệ cộng sản của mình, mặc dầu đó là một chủ nghĩa Mác Lê, một chủ nghĩa ngoại lai của đệ tam quốc tế cộng sản, vì lúc bấy giờ Lê Duẩn và cả ban lãnh đạo đảng vẫn còn luôn luôn là đệ tử và tay sai rất trung thành của Liên Xô vĩ đại ! Họ phải tiếp tục chương trình bành trướng xuống cả Miền Đông Nam Á Châu theo lệnh và dĩ nhiên theo đúng kế hoạch của quan thầy Liên Xô mà Hồ chí Minh đã nhận lãnh trước khi về nước, cướp chánh quyền ở Việt Nam vào mùa thu năm 1945.

Quyết tâm đầu tiên của họ là phải "cải tạo" Miền Nam Việt Nam thống nhất với Miền Bắc về mặt ý thức hệ. Do đó họ biến ngay lãnh thổ Miền Nam thành những "ốc đảo" trong đó dân chúng Miền Nam Việt Nam cũng như cả triệu quân cán chính đi tù lao động khổ sai khắp các miền của đất nước đều được nhồi sọ với những khẩu hiệu thật kêu như "Lao động là vinh quang", "tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội", hay phải nhanh chóng cố gắng học tập cải tạo để trở thành "con người mới xã hội chủ nghĩa" v.v....

Đến ngày hôm nay thời gian đã qua gần suýt soát 30 năm dài rồi, gần 30 năm ngự trị trên cả nước Việt Nam thống nhất từ Nam chí Bắc với một chế độ xã hội chủ nghĩa, công an trị hà khắc,

. Ba chục năm "tiến mạnh tiến nhanh lên xã hội chủ nghĩa" nhưng con người mới xã hội chủ nghĩa đâu chưa thấy, mà chỉ thấy từ Nam chí Bắc chỉ có 2 giai cấp:

- "Giai Cấp Thống Trị" gồm trên một triệu đảng viên, cán bộ các cấp từ trung ương đến tận địa phương xã ấp, từ khố rách áo ôm thuộc giai cấp đấu tranh bần nông đã tiến lên thành triệu phú, với xe hơi nhà lầu, nhà cao cửa rộng, từ giai cấp bần cố nông đã tiến thật nhanh lên hàng "Phú Địa Hào" (không có "Trí"), nhờ thẳng tay bóc lột , và đục khoét từ công qũy đến tiền viện trợ của nước ngoài, lại thêm hối mại quyền thế với đủ kiểu tham nhũng, hối lộ v.v.... Trên nguyên tắc và đúng theo ý thức hệ Mác Lê thì đây là những giai cấp thù nghịch với giai cấp bần nông mà Cộng sản Việt Nam đã ra công tiêu diệt trong chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất ở Miền Bắc trong thập niên 50... theo lệnh của các quan thầy Stalin và Mao trạch Đông. Bây giờ thì từ lớp áo vải thô và bộ mặt cộng sản của hậu bán thế kỷ 20, lớp "con người mới xã hội chủ nghĩa" của thế kỹ 21 đã được biến đổi hoàn toàn từ thể chất đến tinh thần, biến thành bộ mặt Địa chủ, Phú Ông và cường Hào trong lớp áo nhung lụa xã hội chủ nghĩa. Quả thật không sai! Đúng là mẫu "con người mới xã hội chủ nghĩa"!!

- Giai Cấp Bị Trị gồm gần 80 triệu dân đen, về mặt tinh thần sống không có chút tự do tối thiểu nào của một con người, về mặt vật chất tưởng là tiến lên làm con người mới xã hội chủ nghĩa là phải được ấm no hạnh phúc, có ngờ đâu cứ theo đà tiến càng ngày càng thụt lùi vào thời kỳ đồ đá trong suốt 15, 16 năm trường... trong chiến dịch "ngăn sông cấm chợ", từ 75 cho đến hết thập niên 80. May mà quan thầy Liên Xô sụp đổ thì mới bắt đầu thở được nhẹ nhàng đôi chút với không khí "đổi mới" (pedestroika), tuy ăn chưa đủ ngon nhưng cũng có được chút áo quần thay đổi....

Vậy chúng ta hãy thử quan sát một vài hình ảnh, thử xem một vài hiện tượng của lớp "con người mới xã hội chủ nghĩa" mà đảng và Nhà Nước đã ra công đào tạo trong gần 30 năm nay từ sau ngày 30 tháng 4 1975, xem họ đã tiến đến đâu đối với mẫu đời sống ở Miền Nam Việt Nam trước 1975:

Thanh thiếu niên của Bác : Ăn Chơi Đàng Điếm..... và Đua Đòi....

Có chút tiền rủng rỉnh trong túi, lớp "phú ông mới" mà nhất là con cháu của các "cấp lãnh đạo" trở thành giới lãnh đạo trong giới ăn chơi phù phiếm trong xã hội, chạy theo mọi thói hư tật xấu của thời đại, từ các tiệm nhảy, quán karaokê, các quán cà phê đèn mờ, đến các động "gái gọi", tiêu pha vung vít hằng đêm từ 1000 Mỹ kim cho đến mươi mười lăm cây vàng là thường ! (toàn xài đô la xanh và vàng cây để khỏi gánh bạc "Cụ Hồ" theo chi cho quá nặng và vướng vít tay chân). Lại còn nạn phá làng phá xóm như "đua xe gắn máy" rầm rộ ở các thành phố mà lực lượng công an và an ninh không thể và không dám dẹp hay bắt bớ người nào.... Dĩ nhiên bọn "cậu ấm C.Ô.C.C." nầy (Con Ông Cháu Cha) không bao giờ chịu đến trường, vì họ quan niệm thuyết "hậu duệ xã hội chủ nghĩa sẽ do cha truyền con nối" không cần phải học hành gì cũng có "quyền", có "lực" và sẽ có Đô la trong tay!

Còn giới nữ lưu thì sao? Ít nhất họ cũng phải có cả 2 bộ áo truyền thống cho lễ cưới, một áo dài làm lễ gia tiên và một áo đầm "xoa rê" hở ngực hở lưng, dành cho buổi tiệc. Có cô dâu còn liều mạng, mặc bộ "xoa rê" của một hãng nổi tiếng trên thế giới, chỉ tính riêng tiền thuê cũng phải chục triệu ! Hoặc mua luôn bộ váy có đính pha lê gì đó cũng tới 15 triệu !

Vài năm trở lại đây còn có phong trào chụp hình trước ngày cưới, ai cũng ráng tậu cho mình ít nhất một cuốn album cho bằng chị bằng em, chụp ở tiệm, chụp ngoài công viên hay nhà bảo tàng gì đó, cầu kỳ hơn thì ra bãi biển có núi có mây mới đúng điệu nghệ... Tiền ơi là tiền !

Lại còn mục trang điểm nữa! Mà phải trang điểm theo kiểu Âu châu, Mỹ châu hay theo kiểu "hoa hậu"... mất vài triệu đồng có là bao !

Sau đó lại còn xe hoa nữa ! Phải là xe mui trần , đời mới màu đỏ rực với giá thuê khoản 30 Mỹ kim / giờ, dù là mùa đông hay mùa hè nắng gắt hay mưa dầm, mặc kệ, miễn là đúng theo thời trang của con người mới xã hội chủ nghĩa!

Trong lúc đó thì ngoài xã hội đầy rẫy gái làng chơi, bán dâm khắp nơi, từ thành thị cho đến thôn quê. Chúng ta hãy xem qua môt vài hình ảnh đáng sợ sau đây của chủ nghĩa xã hội.

Phần lớn gái mãi dâm là những cô gái miền thôn quê, qui tụ về các thành phố ở Miền Nam là các cô gái từ Miền Tây. Họ trôi dạt tứ phương từ những quán bia, quán cà phê, karaokê ôm ở Vũng Tàu, Biên Hòa, Bình Dương, Nha Trang. Điển hình là cô Yến Linh, quê ở Đồng Tháp tuy mới 21 tuổi nhưng đã được bốn năm "thâm niên" phục vụ đàn ông. Năm đầu ở những quán cà phê ôm trên đường Bình Giả (Vũng Tàu) sau đó trôi dạt lên các quán bia ôm ở Biên Hòa và cuối cùng lên ở các "chòi bán dâm" bên đường lộ thuộc thị trấn Gia Ray (tỉnh Đồng Nai). Cô thuê mái chòi sống chung với 2 cô gái khác cùng nghề "bán trôn nuôi miệng". Ban ngày các cô ở nhà ngủ, đêm xuống, các cô như những "bông hoa độc nở nhụy về đêm" chào mời khách đi đường.

Theo VNExpress của nhà nước thì trên khúc đường chỉ vài cây số, có những căn "chòi bán dâm" mọc lên nhan nhản với những ánh đèn màu nhấp nháy mời gọi được gắn trước chòi. Đó là những quán nước chuyên chứa gái mãi dâm phục vụ cho khách qua đường và cho cả đàn ông, thanh thiếu niên ở địa phương. Trong những chòi tranh lụp xụp được dựng lên tạm bợ và không tên tuổi dài dài bên bờ lộ, chỉ có vài chiếc ghế bố, hai ba chiếc võng cho khách nghỉ mệt. Các em trong trang phục hở hang hoặc đồ ngủ, cũn cỡn ngồi nằm trên võng đợi khách.

Hoạt động ở đây diễn ra thật là táo bạo. Họ "đi khách ngay tại chỗ", thành phần nầy thường là những quan chức. Đây là loại "gái già", còn các em trẻ sau khi thỏa thuận xong giá cả họ dẫn nhau vào ngay những chòi gần đó...

Đời sống lang thang... bụi đời....

Bây giờ chúng ta hãy xét qua đối tượng "dân chúng" xem một vài mẫu người điển hình đã "bị cải tạo để biến thành con người mới xã hội chủ nghĩa" trong gần 30 năm qua xem sao ?

Đây là một số hình ảnh trai trẻ nam nữ từ thôn quê nghèo đói đổ về thành thị kiếm sống... lang thang nơi vỉa hè, đầu đường xó chợ mà Nhà Nước không sao kiểm soát hay dẹp nổi.

Cả nước hiện có 20,541 trẻ em sống lang thang, bụi đời trên các thành phố để tự mưu sinh. Đây là con số được Ủy Ban Dân Số, Gia Đình và Trẻ Em CSVN đưa ra trong cuộc họp năm 2003 ở Sài Gòn nhằm tìm giải pháp để "đưa trẻ lang thang trở về hòa nhập với gia đình và cộng đồng". Theo con số được nêu ra trong phiên họp, thành phố Sài Gòn có 6,563 trẻ lang thang, Hà Nội có khoảng 7000 trẻ lang thang, Kiên Giang có 3,000 trẻ. Ba bốn năm trước, có lúc thành phố Sài Gòn cho hay trẻ lang thang ở đây có lúc lên hơn 10,000 em. Tất cả đều là con em trong các gia đình nghèo khổ miền quê phải ra thành phố tìm cách tự mưu sinh. Có những làng ở tỉnh Quảng Ngãi, cả người lớn đến trẻ con đều phải vào Sài Gòn hay các thành phố lớn để tìm việc làm. Trong làng chỉ còn một ít người già cả ở lại giữ nhà. Trẻ con làm đủ thứ công việc, từ đánh giày, bán vé số, nhặt rác, bán hàng rong, phụ việc dọn dẹp, khuân vác ở các chợ hay các cửa hàng, ăn xin, hay bất cứ loại công việc gì có thể giúp chúng mưu sinh. Đêm ngủ ở gầm cầu hay vỉa hè. Nhiều trẻ em bụi đời, trai cũng như gái từng là nạn nhân của các vụ lạm dụng tình dục. Các con số thống kê của Công An CSVN nói rằng các trẻ em phạm pháp có nguồn gốc là trẻ lang thang

Ngoài ra Hà Nội đang đề ra kế hoạch thu gom vào một chỗ để kiểm soát trước khi đuổi họ về nguyên quán khoảng 3.000 người lang thang như xin ăn, tàn tật lê lết và những người hay đeo bám khách du lịch, người bị bệnh tâm thần lang thang và những người ngoài tỉnh đang kiếm sống ở Hà Nội. Nhưng theo báo Thanh Niên thì trong suốt 3 năm nay không có một trường hợp nào được thu gom vì Trung Tâm Bảo Trợ Xã hội ở huyện Ba Vì, Hà Tây chỉ có 400 chỗ thì làm sao chứa được trên 6, hay 7 ngàn người? Theo Bộ Lao Động Thương Binh và Xã hội thì những người lang thang kiếm sống và tự do di trú là rất nguy hiểm về tệ nạn xã hội, cho nên giải pháp mà Hà Nội muốn áp dụng, bắt người chỗ nầy đưa vào chỗ kia chỉ là "giải pháp tình thế, không triệt để". Đó là chỉ nói riêng về Hà Nội, ngoài ra các tỉnh trên cả nước đều có nhận công văn yêu cầu "lên danh sách và tập trung tất cả những người lang thang, xin ăn, hay đang kiếm sống tại thành phố."

Trong lúc đó , theo đài VOA thì sau một cuộc hội thảo 4 ngày tại Hà Nội do các cơ quan Liên Hiệp Quốc và tổ chức thiện nguyện bảo trợ, 150 thiếu nhi Việt Nam đã gởi đến chánh quyền một bản thỉnh cầu gồm 15 điểm, hối thúc Nhà Nước phải bảo vệ giới trẻ Việt Nam tránh khỏi nạn mua bán trẻ em và lao động thiếu nhi, đang là một tệ nạn xã hội rất nghiêm trọng tại Việt Nam.

Đảng viên, Cán bộ, Công viên chức: Hối Mại Quyền Thế...

Nói tới "hối mại quyền thế", hối lộ , tham nhũng.... thì cả 80 triệu dân trong nước ai cũng biết và ai cũng phải "ngả mũ cúi đầu" chào thua !! Ngoài 160 sắc thuế chánh thức của Nhà Nước không kể, thì từ tỉnh, thành phố đến tận xã ấp, đảng viên cán bộ cấp nào ở chánh quyền cũng có thể tùy tiện chế ra mọi thứ thuế gọi là "theo nhu cầu địa phương", gọi là để có thêm ngân sách chi dụng". Nhưng có vào ngân sách hay không? và ai chi dụng ? chi dụng cách nào ? thì chỉ có Trời mới biết! Mà đảng viên cộng sản ở các cấp đã "thay Trời" thu tóm tất cả. Và người dân đen thấp cổ bé miệng chỉ biết cúi đầu vâng lịnh dưới họng súng và lưỡi lê mà thôi. Còn chịu không nỗi thì tự động bung đi khỏi địa phương mà sống! Một cựu đảng viên cộng sản thời thập niên 30 ở quận Cai Lậy, Tỉnh Tiền Giang, có lần đã công khai buộc miệng than với tác giả (1991) rằng:

- "Hỏng rồi, suốt cả đời đấu tranh mình chỉ mong diệt hết bọn cường hào ác bá chuyên bóc lột nhân dân, cho nhân dân đỡ khổ. Độc lập thống nhất rồi, tưởng là sẽ thoát được ách bóc lột, sưu cao thuế nặng, nào dè giải phóng nhân dân khỏi bọn bóc lột nầy lại gặp phải bọn "siêu bóc lột khác", còn bóc lột dữ dằng hơn, còn siêu đẳng hơn nữa. Giờ đây ngay bản thân mình vốn là một cựu đảng viên trên 50 tuổi đảng, một nông dân nghèo mà giải phóng rồi lại còn nghèo mạc rệp vì sưu cao thuế nặng của bọn cầm quyền mới, của bọn đảng viên mới, còn nặng gấp trăm lần hơn trước! Phí cả một cuộc đời bốn năm chục năm đấu tranh gian khổ!"

Đó là chỉ mới nói tới: "thuế". Còn nhiều loại thuế "bán công khai hay bí mật" nữa, đó là nạn "lót tay", hay "hối lộ" mà cả nước ai cũng "biết mà vẫn phải bóp bụng chịu", nếu muốn sống yên!

Cho nên tất cả các đảng viên các bộ, công chức các cấp của chế độ, hàng mấy triệu "con người mới xã hội chủ nghĩa" nầy cứ phải bám sát, không dám rời khỏi quyền lực. Và vì thế mà hậu quả tai hại là một số lớn nông dân nghèo muốn tránh nạn bị bóc lột nên bắt buộc phải xa rời gia đình và đồng ruộng, tìm đường ra thành phố lang thang kiếm sống qua ngày.

Đục khoét của công và bóc lột dân chúng chưa đủ, lớp cán bộ đảng viên nầy lại còn tìm mọi cách "ăn chận ăn bớt" mà giới thanh tra Nhà Nước gọi là "rút ruột" tiền viện trợ của nước ngoài qua các dự án phát triển đất nước do hệ thống tài chánh và ngân hàng thế giới tài trợ. Cầm được tiền viện trợ là tiêu xài vung vít, chia nhau bỏ túi riêng. Bằng cớ là hồi đầu năm, Chánh Thanh Tra Nhà Nước CSVN ông Quách lê Thanh, trong một cuộc tiếp xúc với báo chí đã nhìn nhận rằng: "quan chức các cấp chia nhau ăn cắp hơn 1 tỷ Đô la chỉ trong lãnh vực xây cất các công trình hạ tầng cơ sở ở nông thôn. Nhiều dự án đã bị "rút ruột" hơn 80 % không phải là họa hiếm".

Ông Chánh Thanh Tra nầy còn nói rõ:
- " Chỉ mới kiểm soát được 117 dự án, đã thấy quan chức đảng viên ăn cắp mất 2 triệu 2 Đô la, vì tình trạng quyết toán khống, kê khai khống số lượng và đơn giá vật tư, thiết bị xử dụng, nâng khống giá trị vốn đầu tư thực hiện. Họ không sợ thanh tra kiểm soát vì đã có "dù" che từ cấp trên, và tất cả đã kéo bè kéo cánh bao che cho nhau từ cấp trung ương trở xuống để rút ruột tiền viện trợ...." (báo Tuổi Trẻ ngày 8/10/02)

Ông còn xác nhận là "Đã nhận được nhiều văn bản can thiệp của một số Thứ Trưởng, Bộ Trưởng... yêu cầu không nên thanh tra công trình nầy, công trình kia..."

Giới kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa":
Một viên chức Sở Thuế tại Sài Gòn cho biết: ở Sài Gòn có khoảng 30 Giám Đốc hoặc đại diện pháp lý cho Giám Đốc Doanh Nghiệp... thuộc loại "bất bình thường": - Bà Giám Đốc, Đại diện Pháp Lý cho công ty cổ phần Ngọc Châu: Không biết chữ ! Khi phải ký bất cứ giấy tờ gì bà chỉ có thể lăn tay.
- Ông Giám Đốc công ty trách nhiệm Hòa Cát, quận 10: là một đối tượng hình sự, nghiện thuốc phiện nặng.
- Ông Giám Đốc công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo Minh ủy quyền cho Phó Giám Đốc toàn quyền điều động công ty trong công tác kinh doanh. Còn ông thì tự ý cắt bỏ mọi công tác, đi khỏi nơi đăng ký kinh doanh và rời bỏ nơi cư ngụ.
- Có 5 công ty (Tân Hải Dương, Tân Hải Vân, Hoàn Thành, Thuận Long và Bình Giang) đã mua 12 quyển hóa đơn thuế Giá Trị Gia Tăng, gồm 600 tờ đơn khai thuế để có thể được bồi hoàn thuế. Dù cả 5 công ty nầy không kinh doanh gì, dù không buôn bán làm ăn gì... nhưng họ vẫn kê khai số hàng hóa mua vào (231 tỷ đồng) với tiền thuế Trị Giá Gia Tăng là 15 tỷ đồng. Với việc kê khai lươn lẹo nầy, Cục Thuế đã làm thủ tục để bồi hoàn cho họ 1 tỷ 2 đồng.
- Cũng như vậy đã có hàng trăm công ty, sau khi đã nộp đơn xin thành lập, đã tự dưng biến mất cùng với các cuốn sổ hóa đơn khai thuế Trị Giá Gia Tăng. Mục đích của họ chỉ là có được các cuốn sổ khai thuế nầy để bán chợ đen cho các công ty khác, kể cả tư nhân; nhất là các công ty quốc doanh, để các cơ sở nầy khai gian số lượng hàng hóa nầy "rút ruột" Nhà Nước qua hình thức bồi hoàn thuế.

Đã có hằng trăm tỷ đồng từ ngân sách Nhà Nước đã bị thất thoát qua các việc khai gian nầy. Dĩ nhiên, "với sự tham gia tiếp tay của các cán bộ, đảng viên, quan chức các cấp từ trung ương đến địa phương. Chỉ tính riêng cho một tỉnh Thái Bình, đã có một tổ chức do tên Trần văn Sở cầm đầu, làm giả mạo hồ sơ chứng từ, để rút ruột Nhà Nước trên 10 tỷ đồng, với 7 công ty ma và thương vụ ma, có sự tham gia tiếp tay của các cấp cán bộ thuế từ trung ương đến địa phương.

Cảnh sát và Cảnh sát Giao Thông: thâu Tiền Mãi Lộ...

Mãi lộ có nghĩa là bán đường. Ai bán đường ? Dĩ nhiên là cảnh sát! Đây là số tiền mà báo Thanh Niên trong nước gọi là tiền ăn hối lộ một cách công khai của cảnh sát và cảnh sát giao thông. Ở Việt Nam ngày nay nói tới cảnh sát hay cảnh sát giao thông thì giới tài xế các loại xe đò hay xe vận tải hàng hóa ai cũng biết ngay tới tiền mãi lộ, tức là số tiền phải nộp cho cảnh sát để hoặc được phép đậu xe để xuống hàng, rước khách,v.v... hoặc xe được qua khỏi trạm kiểm soát nào đó của cảnh sát. Trạm kiểm soát nầy có khi cố định, có khi lưu động xuất hiện bất thần ở bất cứ một điểm nào đó trên xa lộ.

Tờ báo nầy cũng "phân trần giùm" rằng có lẽ Cảnh sát tham nhũng vì lương quá thấp. (Lương cảnh sát và cảnh sát giao thông mỗi tháng khoảng 60 Mỹ kim, lương thượng sĩ dưới 100 Mỹ kim). Nhưng câu hỏi được đặt ra là có phải thực sự vì lương thấp nên mới dẫn đến việc mãi lộ hay không? Vì với mỗi cú "mãi lộ" họ kiếm được từ 3 đến 10 Mỹ kim, và mỗi ngày ăn được trên dưới 50 cú. Chia chác trên dưới xong, mỗi người cũng bỏ túi riêng được mỗi ngày vài mươi đô la Mỹ.

Theo Quỹ Tiền Tệ Quốc tế (IMF) thì lương thấp chỉ là một yếu tố rất phụ, thứ yếu so với các yếu tố khác như không có tự do mậu dịch, luật lệ cấm đoán các sinh hoạt kinh tế, chính sách có ưu đãi, không công bằng,v.v...

Theo các đảng viên, cán bộ và công viên chức Nhà Nước thì hối lộ và mãi lộ là một thứ bồi dưỡng chính thức cho tất cả các loại quan chức của Nhà Nước kể cả công an và cảnh sát. Tuy nhiên xét cho cùng nếu lương cảnh sát (hay của Hải Quan) quá ít như vậy, tại sao mấy cậu cứ đâm đầu vào các nghề đó? Có khi còn phải hối lộ mới được vào làm các nghề ít lương đó.

Chỉ có một câu trả lời duy nhất là "họ vào các ngành đó để ăn "hối lộ", để ăn tiền "mãi lộ" chớ không phải để ăn lương, vì họ quan niệm lương Nhà Nước không là cái thá gì đối với họ! Do đó lương thấp không ảnh hưởng gì đến "mãi lộ" mà Nhà Nước có tăng lương cũng không thể giảm được "mãi lộ". Vì các tài xế có chung tiền "mãi lộ" thì mới tránh được các luật lệ vô lý của Nhà Nước đặt ra. Thí dụ như: ở bến bốc dỡ hàng lại vô lý có nhiều bảng cấm đậu xe bắt buộc các tài xế xe vận tải phải chung tiền cho cảnh sát thì mới mong được cho xe đậu để bốc dỡ hàng hóa xuống được. Thí dụ như Quyết định của ông Bộ trưởng Giao Thông Vận Tải giới hạn chiều cao của các loại xe là 4.2 thước. Mới nghe thì có vẻ bình thường quá, nhưng thật tế nó thật là "vô lý". Khoảng cách từ mặt lộ lên tới gầm cầu ở Việt Nam là 4.5 thước, (thì cứ cho ghi 4.5 thước trên thành cầu đi). Quan trọng hơn nữa là con số 4.2 thước gây cản trở rất lớn cho kinh tế, vì loại xe vận tải chở containere 40 feet thông thường nhất có chiều cao 4.3 thước, vừa đủ để bị phạt! Do đó Luật vô lý như vậy sẽ "bắc cầu" cho phép cảnh sát giao thông có điều kiện ăn tiền "mãi lộ". Và "mãi lộ" như vậy tính ra còn ít hại hơn cho nền kinh tế quốc gia hơn là cấm xe vận tải container có chiều cao quá 4.2 thước. Và nếu luật 4.2 thước nầy còn thì có tăng lương cảnh sát đến đâu, người ta vẫn cứ phải nộp tiền mãi lộ và cảnh sát hay cảnh sát giao thông vẫn cứ phải bỏ túi... Và đây cũng là một trong những bộ mặt điển hình của loại "con người mới xã hội chủ nghĩa !

BĂNG ĐẢNG XÃ HộI ĐEN

Lại còn một bộ mặt mới của con người mới xã hội chủ nghĩa nữa ! Đó là có nhiều loại băng đảng xã hội đen khắp nước. Theo báo Thanh Niên thì các băng đảng xã hội đen đang hoành hành khắp nơi trên cả nước. Điển hình là băng đảng của Năm Cam, tay chân của Mai chí Thọ, người vừa bị xử tử hình và không tìm thấy xác đâu cả sau khi bị hành quyết (?). Báo Thanh Niên chỉ đưa ra một vài ví dụ nho nhỏ thôi, như tại quận Bình Thạnh. Sài Gòn: "Một thanh niên bị đâm thủng tim, một Việt kiều Mỹ bị chém đứt bả vai ở khu vực Bình Thạnh, Sài Gòn trong hai ngày cuối tháng 3 và đầu tháng tư, 2004. Trước đó không lâu, 3 người bị thương trong vụ thanh toán đêm Valentine và bar Phi Thuyền bị quấy rối". Cũng theo tờ báo nầy, vào lúc nửa đêm 31/3, anh Nguyễn Minh Hiếu đang ngồi trên xe máy trước cửa nhà mình (số 334/36B Phan Văn Trị, phường 11) thì thấy người quen đi tới. Đôi bên trao đổi vài lời, trong đó người kia nói: "Mày biết tiền này không phải là của tao", rồi bất ngờ rút dao trong người đâm thẳng vào tim Hiếu. Dân chúng sững sờ, vội xúm xít đưa nạn nhân đi cấp cứu. Thừa cơ gã côn đồ âm thầm biến mất. Khoảng một tuần sau, kẻ thủ ác đầu thú. Hắn là Hồ Nhật Thiện, ở 222 Phan Văn Trị. Theo lời khai hung thủ, nguyên nhân giết người chỉ là nợ nần cá nhân 10 triệu đồng. Tuy nhiên, đằng sau lời khai nhận tội đó lại có bóng dáng những ông chủ loại "bố già", bởi Thiện trước khi ra tay đã nói với nạn nhân: "Mày biết tiền này không phải của tao". Các nguồn tin ở khu vực này cho thấy kẻ giết người liên quan đến hoạt động của các băng nhóm giang hồ Tuấn "Than", Trung "Mập", Năm Trọng, Mười Cối,v.v... Lãnh địa của chúng trải dài khắp tuyến Phan Văn Trị - Nơ Trang Long. Do đó nhiều khả năng Thiện chỉ là con tốt ra mặt khi thanh toán con nợ và nhận tội thay đàn anh. Và đây là cách hành xử giang hồ để đàn anh của Thiện dằn mặt các con nợ khác. Đêm 4/4, khi Việt kiều Mỹ tên là Trần Bảo (tạm trú phường 19 quận Bình Thạnh) trên đường Phan Văn Hân về nhà thì bị 2 kẻ lạ mặt đi xe gắn máy tấn công. Chúng dùng mã tấu dài khoảng 1 thước, chém từ đỉnh đầu phía sau lưng nhưng bị trượt làm đứt bả vai. Nạn nhân cho biết, 15 phút trước đó, Bảo và Nhật đến uống nước tại quán cà phê 107 Nguyễn Cửu Vân để gặp chủ quán tên Kiệt, nhưng không được. Bảo đã buông lời trêu ghẹo một tiếp viên ở đây rồi ra về. Cho đến nay, 4 vụ án ở quận Bình Thạnh vẫn còn quẩn quanh trong giai đoạn điều tra.

Tạm kết:

Hầu hết các bà "mẹ chiến sĩ", điển hình nhất những người ở vùng Hóc Môn Bà Điểm, Đức Hòa Đức Huệ, Hớn Quản, Lộc Ninh, Ba Rài (Cai Lậy),v.v... những người đã từng coi thường sinh mạng của bản thân và gia đình mình bất chấp hiểm nguy trong công tác nuôi dưỡng, dấu giếm hay yểm trợ hết mình các "lãnh đạo đảng" và "lãnh đạo kháng chiến", hay các kháng chiến quân trong thời kỳ "kháng Pháp hay chống Mỹ" trước 1975... thì giờ nầy họ đã quá hối hận vì lớp cán bộ đảng viên cộng sản trong chánh quyền hiện tại đã lên mặt dùng uy quyền để hiếp đáp, bóc lột và cướp đất đai, cướp ruộng vườn của họ. Nên họ đã bất chấp mọi thứ, bỏ công năm lần bảy lượt ra tận Hà Nội, đến thẳng Ba Đình hay ngay Quốc Hội để kêu cứu nhưng chưa có lần nào gặp được bất cứ một người nào trong Lãnh đạo đảng hay lãnh đạo chính phủ và Nhà Nước dù họ đói khát chịu rét mướt để ăn dầm nằm dề hằng tháng ở đó cũng vậy! Tình đồng bào ở đâu? Tình người ở đâu ? Ân nghĩa ở đâu?

Đối với nhóm "mẹ chiến sĩ" hay những "ân nhân của lãnh đạo kháng chiến, lãnh đạo Mặt Trận GPMN và các chiến sĩ kháng chiến quân", ân nhân của đảng... mà các "ông cộng sản Việt Nam" còn đối xử quá tàn tệ và quá lạnh nhạt như vậy thì liệu đối với "nhân dân" không là cái thá gì với đảng, thì còn ra sao nữa? Cho nên để tạm chấm dứt ở đây tác giả xin chỉ đưa ra một hình ảnh đau thương của những bà Mẹ chiến sĩ trên đây ra để độc giả nhận xét rõ về "con người cộng sản Việt Nam", và nhất là về những "con người mới xã hội chủ nghĩa" đã được đảng ra công bỏ sức đào tạo, sau gần 30 năm cướp được Miền Nam Việt Nam theo lệnh của các quan thầy Liên Xô và Trung Cộng.

Thì ra chỉ có Quyền Lực và Đô La mà thôi!

Tiểu bang Washington đầu thu năm 2004
Trường Sơn DHN